Hiện đại hóa là gì nội dung và tiến trình hiện đại hóa vhvn diễn ra như thế nào

Hiện đại hóa là gì? Nội dung và tiến trình hiện đaị hóa VHVN diễn ra như thế nào?

Soạn bài Khái quát văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945, ngắn 1

Câu 1: Đặc điểm cơ bản của văn học Việt Nam thời kì từ đầu thế kỉ XX đến Cánh mạng tháng Tám 1945
a.
- Khái niệm "hiện đại hóa văn học" là quá trình làm cho văn học thoát ra khỏi hệ thống thi pháp văn học trung đại và đổi mới theo hình thức của văn học phương Tây, có thể hội nhập với nền văn học hiện đại trên thế giới.
- Những nhân tố tạo điều kiện cho nền văn học Việt Nam phát triển theo hướng hiện đại hóa :
+ Xã hội thực dân nửa phong kiến, cơ cấu xã hội có những biến đổi sâu sắc : xuất hiện các giai cấp, tầng lớp mới.
+ Ảnh hưởng của văn hóa phương Tây (Pháp).
+ Lực lượng sáng tác chủ yêu : Tầng lớp trí thức Tây học ( tiếp cận với nền văn học Pháp).
+ Chữ quốc ngữ đã thay thế chữ Hán và chữ nôm trong nhiều lĩnh vực.
+ Nghề in, xuất bản, báo chí, dịch thuật ra đời và phát triển khá mạnh.
+ Sự xuất hiện của đội ngũ phê bình văn học.
- Quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam thời kì này diễn ra qua ba giai đoạn.
+ Giai đoạn thứ nhất (từ đầu thế kỉ XX đến năm 1920) đây là giai đoạn chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho công cuộc hiện đại hóa văn học.
+ Giai đoạn thứ hai (khoảng từ 1920 đến 1930) là giai đoạn giao thời, hoàn tất các điều kiện để văn học phát triển vượt bậc ở giai đoạn thứ ba.
+ Giai đoạn thứ ba (từ khoảng năm 1930 đến năm 1945) là giai đoạn phát triển rực rỡ, có sự cách tân sâu sắc ở nhiều thể loại, đặc biệt là tiểu thuyết, truyện ngắn và thơ, phóng sự, phê bình ra đời và đạt nhiều thành tựu.

b.
Văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến cách mạng tháng Tám năm 1945 hình thành theo hai bộ phận và phân hóa thành nhiều dòng, vừa đấu tranh với nhau, vừa bổ sung cho nhau để cùng phát triển.
Do đặc điểm của một nước thuộc địa, chịu sự chi phối mạnh mẽ và sâu sắc của quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, văn học từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 hình thành hai bộ phận: Văn học công khai và văn học không công khai.
Văn học công khai là văn học hợp pháp, tồn tại trong vòng pháp luật của chính quyền thực dân phong kiến. Văn học không công khai bị đặt ra ngoài vòng pháp luật, phải lưu hành bí mật. Do khác nhau về đặc điểm nghệ thuật, về khuynh hướng thẩm mĩ, nên văn học công khai lại phân hóa thành nhiều dòng, trong đó nổi lên hai dòng chính: văn học lãng mạn và văn học hiện thực.
Bộ phận văn học không công khai có thơ văn cách mạng bí mật, đặc biệt là thơ của các chí sĩ và các chiến sĩ cách mạng sáng tác trong tù.

c.
Nguyên nhân của tốc độ phát triển văn học thời kì này là:
- Do sự thúc bách của yêu cầu thời đại.
- Do chủ quan của nền văn học (đây là nguyên nhân chính).
- Do sự thức tỉnh, trỗi dậy mạnh mẽ của cái tôi cá nhân.
- Ngoài ra cũng cần phải nhận ra rằng, thời kì này, văn chương đã trở thành một thứ hàng hóa, viết văn trở thành một nghề để kiếm sống. Đây là lí do thiết thực, một nhân tố kích thích người cầm bút.

Câu 2: Thành tựu chủ yếu:
a. Những truyền thống tư tưởng lớn của lịch sử văn học Việt Nam là yêu nước, anh hùng và nhân đạo. Văn học thời kì đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám 1945 tiếp tục phát huy truyền thống ấy trên tinh thần dân chủ.
b. Các thể loại văn học mới xuất hiện trong văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 là: kịch nói, bút kí, phóng sự, tiểu thuyết, phê bình văn học...
Sự cách tân, hiện đại hóa của thể loại tiểu thuyết được thể hiện ở chỗ có sự thay đổi về hệ thống thi pháp. Tiểu thuyết hiện đại chú trọng xây dựng tính cach nhân vật hơn cốt truyện, đi sâu vào nội tâm nhân vật, thuật truyện không theo trật tự thời gian tự nhiên, tả thực, ngôn ngữ lời văn hiện đại, gần gũi với đời thường, từ bỏ lối văn biền ngẫu...
Sự cách tân, hiện đại hóa ở thơ ca: Thơ mới phá bỏ các quy phạm chặt chẽ của thơ cũ, chuyển từ cái ta chung chung sang cái tôi cá nhân.

II. Luyện tập
Vì sao có thể gọi văn học Việt Nam ba mươi năm đầu thế kỉ XX (từ 1900 đến 1930) là văn học giai đoạn giao thời?
Hiện đại hóa văn học là một quá trình. Trong giai đoạn đầu, đặc biệt là ở giai đoạn thứ nhất, sự đổi mới còn có những trở ngại nhất định, bởi sự níu kéo của cái cũ. Vì thế, văn học từ năm 1990 đến năm 1930 được gọi là giai đoạnvăn học giao thời.

Soạn bài Khái quát văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến cách mạng tháng Tám 1945

THPT Sóc Trăng Send an email
0 14 phút

Bài soạn Khái quát văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến cách mạng tháng Tám 1945sẽ tóm tắt lại những nét nổi bật nhất về tình hình xã hội và văn hóa Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX. Qua đó, giúp các em nắm vữngnhững đặc điểm cơ bản và thành tựu chủ yếu của văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945, có kĩ năng vận dụng những kiến thức đó vào việc học những tác giả và tác phẩm cụ thể.

Nội dung

  • 1 Soạn bàingắn gọnKhái quát văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến cách mạng tháng Tám 1945
  • 2 Soạn bài chi tiếtKhái quát văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến cách mạng tháng Tám 1945
    • 2.1 Luyện tập
    • 2.2 Tóm tắt nội dung lí thuyết

Phương diện của quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX – 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (97.42 KB, 11 trang )

Nêu các phương diện của quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam từ đầu thế
kỉ XX – 1945
Văn học đổi mới theo hướng hiện đại hóa
-

Khái niệm “hiện đại hóa” được hiểu là quá trình làm cho văn học thoát ra
khỏi hệ thống thi pháp văn học trung đại (VHTĐ) và đổi mới theo hình
thức của văn học phương Tây, có thể hội nhập với nền văn học trên thế
giới.

-

Cơ sở xã hội:
• Đầu thế kỉ XX, thực dân Pháp xâm lược và đẩy mạnh công cuộc khai
thác thuộc địa, làm cho xã hội nước ta có nhiều thay đổi: xuất hiện
nhiều đô thị và nhiều tầng lớp mới, nhu cầu thẩm mĩ cũng thay đổi.
• Nền văn học dần thoát khỏi sự ảnh hưởng của văn học Trung Hoa và
dần hội nhập với nền văn học phương Tây (cụ thể là nền văn học Pháp).
• Chữ Quốc ngữ ra đời thay cho chữ Hán và chữ Nôm.
• Nghề báo in xuất bản ra đời và phát triển khiến cho đời sống văn hóa trở
nên sôi nổi.

1. Quan niệm văn học và lí tưởng thẩm mĩ.
a. Quan niệm văn học
Văn học trung đại Việt Nam:
-

Văn học trung đại Việt Nam bị chi phối bởi quan niệm sáng tác “Văn dĩ tải
đạo”, “Thi dĩ ngôn chí” – tức xem văn chương là công cụ, phương tiện để
thể hiện đạo đức thời phong kiến.


-

Nhấn mạnh ý nghĩa giáo dục – giáo hóa của văn chương. Văn chương có
chức năng giáo hóa (giáo dục, làm thay đổi nhân cách của con người theo
hướng tốt đẹp hơn) và di dưỡng tính tình (giúp bản thân nhà văn thanh lọc
tâm hồn, bày tỏ tâm sự trung quân ái quốc, nuôi dưỡng nhân cách người
quân tử).


-

Độc giả đến với văn chương là để thấm nhuần tư tưởng đạo lý, tác giả sáng
tác theo kiểu tâm truyền, dùng văn chương để giáo huấn đạo đức.

-

Văn chương nghệ thuật có sứ mệnh thiêng liêng, cao cả, thần thánh hóa.

-

Người sáng tác văn học coi văn chương là “nghiệp” chứ không phải là
nghề.
Văn học hiện đại

-

Văn chương là một hoạt động nghệ thuật, đi tìm và sáng tạo cái đẹp, nhận
thức và khám phá cuộc sống.

-


Từ đầu thế kỉ XX, văn chương được coi là một nghề để kiếm sống, sáng tạo
nghệ thuật gắn với nhu cầu giải trí.

-

Xuất hiện khái niệm “nhà văn” và “nghề văn” với các quá trình được
chuyên nghiệp hóa từ sáng tác, xuất bản, in ấn, phát hành.
b. Lí tưởng thẩm mĩ

Trung đại
• Cái đẹp gắn với đạo đức, thuộc
vào những khuôn mẫu định sẵn

Hiện đại
• Cái đẹp đa dạng, phong phú, gắn
với đời sống

(xuân – hạ – thu – đông, tùng –
cúc – trúc – mai, long – li – quy
– phượng…)
• Cái đẹp chỉ mang tính ước lệ,
tượng trưng
• Lấy thiên nhiên làm chuẩn mực
cái đẹp, là thước đo mọi giá trị
của tạo vật. Trong văn học trung
đại, hình tượng thiên nhiên
thường gắn với lí tưởng, đạo đức

• Đề cao vẻ đẹp của con người



thẩm mỹ của con người.

VD.
Văn học trung đại
-

Nhân cách của người quân tử xưa được ví như tùng, bách; vẻ đẹp của người
giai nhân được ví với liễu, mai.

-

Người phụ nữ có sự hết hợp hài hòa giữa vẻ đẹp về hình thức và cái đẹp về
tâm hồn, họ là hiện thân của cái đẹp: đẹp người – đẹp nết. Người phụ nữ có
đức hạnh theo quan niệm của Nho gia (lễ giáo phong kiến) phải hội tụ đủ
“Tam tòng, tứ đức” (Tại gia tòng phụ – Xuất giá tòng phu – Phu tử tòng tử
và Công – Dung – Ngôn – Hạnh). Đó chính là vẻ đẹp đoan trang, mực
thước, gắn với chuẩn mực đạo đức của thời đại.

-

Các nhà văn, nhà thơ lấy thiên nhiên làm chuẩn mực của cái đẹp, so sánh
người phụ nữ với phong, hoa, tuyết, nguyệt nhằm tô thêm vẻ đẹp cao cả,
tao nhã của họ.

• Vẻ đẹp của Hạnh Nguyên trong “Nhị độ mai” được so sánh với “ngọc,
nguyệt, mây”:
“Người đâu trong ngọc trắng ngà,
Mặt vành vạnh nguyệt, tóc ngà ngà mây.”

• Vẻ đẹp khuôn mẫu của Thúy Vân, Thúy Kiều trong “Truyện Kiều” của
Nguyễn Du:
“Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười, ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo, mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn.
Làn thu thủy, nét xuân sơn


Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.”
Văn học hiện đại
-

Các tác giả của nhóm Tự lực văn đoàn đã có những quan niệm thẩm mĩ mới
có tính thời đại về cái đẹp của con người, đặc biệt là con người đô thị. Con
người trong tác phẩm của nhà văn đã ý thức công khai rằng sắc đẹp tự thân
là một yếu tố giá trị cá nhân, là điều đáng tự hào của các nhân vật, vì thế
con người luôn có ý thức làm đẹp cũng như phô diễn sắc đẹp của bản thân
mình. Phần lớn các cô thiếu nữ trong tác phẩm của Tự lực văn đoàn đều có
hình thức bề ngoài khá quyến rũ, hiện đại, không giống với vẻ đẹp mực
thước của người phụ nữ trong các tác phẩm văn học trung đại nữa. Cô đào
Mơ trong truyện ngắn “Dọc đường gió bụi” của Khái Hưng là một cô gái có
vẻ đẹp “muôn phần diễm lệ”. “Hai đặc điểm của Mơ là cái giọng véo von
bổng trầm đúng bậc và tấm nhan sắc diễm lệ. Không phải là cái nhan sắc
chín chắn, thùy mị kín đáo của phần nhiều các cô gái quê, nhưng là cái
nhan sắc long lanh với đôi mắt hơi xếch, với cặp môi tươi thắm luôn nhích
một nụ cười lẳng lơ, nồng nàn.”


-

Nếu như các nhà thơ cổ lấy thiên nhiên làm chuẩn mực của cái đẹp để làm
nổi bật vẻ đẹp của con người thì nhà thơ Xuân Diệu lại lấy con người làm
chuẩn mực để so sánh với vẻ đẹp của thiên nhiên.
“Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần”
Điều đó đã thể hiện sự thay đổi về nhận thức , quan niệm về cái đẹp của
Xuân Diệu – “Nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”. Ông thấy mùa
xuân với bao vẻ đẹp sinh động của nó giống như cặp môi đỏ mọng của
thiếu nữ đang kề gần. Đây là một cách so sánh rất riêng, rất táo bào, đầy
tình yêu đời nồng nhiệt rất Xuân Diệu, chứa đựng bao rung động tận đáy
lòng, vừa có sự khao khát, thèm muốn, háo hức rất thiêng liêng mà cũng rất
trần tục.

-

Nguyễn Tuân có quan niệm rất mới về cái đẹp, cái đẹp không gắn liền với
đạo đức. Ông từng cho rằng “Mỹ học vốn không là bà con với luân lí của


thời đại. Một thằng ăn cắp đã trở nên đẹp đẽ vô cùng khi hắn cắp túi người
ta rất gọn và rất nhanh.”
c. Cái “ta” và cái “tôi”
Văn học trung đại
-

Cá tính nhà văn, nhà thơ chưa có điều kiện thể hiện đậm nét. Trong xã hội
phong kiến, cái tôi cá nhân không được coi trọng, các tác giả thường chỉ
viết theo cái ta đạo lí trong hệ thống thi pháp của văn học trung đại. Các tác
giả đều khách thể hóa bản thân, không nói về cái tôi của mình.


-

Từ khoảng thế kỉ XVIII trở đi, tình trạng khủng hoảng sâu sắc của ý thức
hệ phong kiến đã thức tỉnh mạnh mẽ ý thức cá nhân. Cái tôi xuất hiện rõ nét
trong tác phẩm của các tác giả Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Cao Bá Quát,
Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Khuyến, Tú Xương,...

-

Chỉ có ba tác giả xưng tên mình trong sáng tác trung đại: Hồ Xuân Hương,
Nguyễn Du và Nguyễn Công Trứ.
“Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương mới quệt rồi
Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá bạc như vôi.”
“Mời trầu” – Hồ Xuân Hương
“Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?”
(Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Thiên hạ ai khóc Tố Như chăng?)
“Độc Tiểu Thanh ký” – Nguyễn Du
“Vũ trụ nội mạc phi phận sự
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng”


“Bài ca ngất ngưởng” – Nguyễn Công Trứ
Văn học hiện đại: đề cao cái tôi cá nhân, đề cao cá tính sáng tạo của người
viết.
-


Nếu thơ ca trung đại gắn với hình ảnh con người phi ngã, con người trở
thành phát ngôn của đạo lí, của tam cương ngũ thường, tàm tòng tứ đức thì
con người trong thơ mới đã mở ra một thế giới nội tâm vô cùng phong phú
với những cung bậc tình cảm, những khát vọng, những đắm say và có cả
những buồn đau hạnh phúc.

-

Cái tôi tự do của Xuân Diệu như một “con ngựa trẻ không cương” cứ xông
vào cuộc đời với những niềm hưng phấn, xúc cảm mãnh liệt. Nhà thơ kêu
gọi tuổi trẻ phải sống mạnh mẽ, có bản lĩnh, hãy hưởng thụ cuộc sống tràn
đầy hương sắc thay vì giam mình trong cảnh sống im lìm, tẻ nhạt, đầy vô
vị:
“Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm
Em vui đi răng nở ánh trăng rằm
Anh hút nhụy của mỗi giờ tình tự”
(Giục giã)

-

Cái tôi cá nhân tự do của Nguyễn Bính chính là sự rượt đuổi, kiếm tìm
bằng một cốt cách đa tình, một đam mê không bờ bến trên hành trình kiếm
tìm hạnh phúc:
“Chiều nay … thương nhớ nhất chiều nay
Thoáng bóng em trong cốc rượu đầy
Tôi uống cả em và uống cả
Một trời quan tái mấy cho say”
(Một trời quan tái)



-

Cái tôi cá nhân của Thế Lữ là khao khát tự do, vẫy vùng giữa cảnh “núi non
hùng vĩ”, thoát khỏi cảnh tù hãm sa cơ như tâm sự con hổ trong vườn bách
thú:
“Có biết chăng trong những ngày ngao ngán
Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn
Để hồn ta được phảng phất gần ngươi
- Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!”
(Nhớ rừng)
d. Tính quy phạm, sùng cổ
Văn học trung đại

-

Có tính quy phạm chặt chẽ:

• Thể loại nào cũng tuân theo những luật lệ, quy định nghiêm ngặt từ đề tài,
chủ đề, kết cấu, bố cục đến số câu, số chữ, cách ghép vần,…
• Người viết phải thông qua một hệ thống ước lệ dày đặc, nghiêm ngặt để
phản ánh nội dung tác phẩm (dù phản ánh hiện thực hay bộc lộ tình cảm).
Đây là điểm hạn chế khả năng phản ánh hiện thực của văn học song lại phù
hợp với tâm lí nghệ thuật, quan niệm thẩm mĩ của người xưa.
• Tính quy phạm, ước lệ, tượng trưng đã tạo cho tác phẩm văn học trung đại
tính hàm súc cao, ít lời, nhiều ý, đồng thời có vẻ đẹp riêng: trang nhã và
thâm thúy.
-


Sử dụng điển tích, điển cố

• Do quan niệm thời gian phi tuyến tính, nên trong văn chương trung đại, các
nhà văn luôn có xu hướng tìm về quá khứ. Họ lấy quá khứ làm chuẩn mực
cho cái đẹp, lẽ phải, đạo đức. Chân lý quá khứ là chân lý có sức sáng tỏa
muôn đời. Vì thế, văn chương thường lấy tiền đề là lý lẽ và kinh nghiệm
của cổ nhân, của lịch sử xa xưa.
• Văn học sử dụng nhiều điển tích, điển cố. Các nhà văn đời sau thường “tập
cổ” vay mượn văn liệu, thi tứ, hình ảnh nghệ thuật của các nhà thơ, nhà văn


đời trước mà không bị đanh giá là “Đạo văn”. Ngược lại, họ được đánh giá
là một cây bút đạo đức, sang trọng, tác phẩm của họ rất giàu giá trị.
Văn học hiện đại: đề cao tự do, tôn trọng tự do sáng tác, không lệ cổ.
2. Hệ thống đề tài, chủ đề, hình tượng trung tâm
Trung đại
Hiện đại
Khai thác đề tài quá khứ, lịch sử hoặc Lấy từ đời sống hiện thực đương đại
lấy các điển tích, điển cố để bàn luận
VD. “Hịch tướng sĩ”, “Truyện Kiều”
• “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa
đêm vỗ gối, ruột đau như cắt,
nước mắt đầm đìa; chỉ giận chưa
thể xả thịt, lột da, ăn gan, uống
máu quân thù; dẫu cho trăm thân
ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn thây
ta bọc trong da ngựa, cũng
nguyện xin làm.”
 Điển tích “nghìn thây ta
bọc trong da ngựa” lấy từ

câu nói của viên tướng
khét tiếng Mã Viện đời
Hán chép trong Hậu Hán
Thư: “Đại trượng phu
dương tử ư cương trường,
dĩ mã cách khỏa thi nhĩ”
(bậc đại trượng phu nên
chết ở giữa chiến trường,
lấy da ngựa mà bọc thây),


ý nói làm trai phải đánh
Đông dẹp Bắc, xả thân
nơi chiến trường vì nghĩa
lớn.
Thường ảnh hưởng, vay mượn của văn
học Trung Quốc
Nhân vật trung tâm là người anh hùng Nhân vật đa dạng, phong phú, là con
cứu quốc, liệt nữ, tráng sĩ, chinh phu người ở mọi giai cấp, tầng lớp trong xã
chinh phụ, chủ yếu là tầng lớp trên.

hội đương đại, ai cũng có thể trở thành
nhân vật trung tâm

3. Hệ thống thể loại
Trung đại
Tính nguyên hợp rõ nét

Hiện đại
Chỉ những thể loại thuần túy văn học

mới gọi là văn chương.

-

Một số thể loại có tính chức năng

-

Thơ trữ tình

rõ nét nhưng vẫn được coi là văn

• Thơ ca gắn liền với tên tuổi của

học như cáo, tấu, sớ, biểu, chiếu,

Tản Đà, ông là người đầu tiên

chỉ

phá vỡ cách viết chịu ảnh hưởng

-

Văn tế, hịch

của lối Đường luật.

-


Văn – sử – triết bất phân

-

Thơ, phú, văn (truyện lí chữ
Hán, truyện thơ Nôm)

• Thời kì Thơ mới là đỉnh cao của
sự phát triển thơ Việt Nam.
• Một số nhà thơ tiêu biểu trong
giai đoạn Thơ mới là Xuân Diệu,
Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Huy
Cận, Nguyễn Bính,…
-

Tự sự hư cấu (tiểu thuyết, truyện
ngắn, kí)

• Người đầu tiên có công trong


việc hiện đại hóa tiểu thuyết là
Hồ Biểu Chánh. Ngoài ra, còn có
nhiều tiểu thuyết gia tiêu biểu
trong thời kì này như Nguyễn
Chánh Sắc, Nhất Linh – Khái
Hưng – Hoàng Đạo (ba tác giả
trong nhóm Tự lực văn đoàn).
• Những cây bút xuất sắc như
Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn,

Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam,
Nam Cao, Nguyễn Tuân, Tô
Hoài… đã nâng truyện ngắn lên
một tầm cao mới.
-

Kịch bản văn học

-

Hiện đại
Chữ Quốc ngữ dần trở thành

4. Ngôn ngữ
-

Trung đại
Văn học chữ Hán phát triển song
song với văn học chữ Nôm.

phương án duy nhất ghi âm ngôn

Văn học chữ Nôm nói về những

ngữ dân tộc theo kí hiệu Latinh

vấn đề phi chính thống chốn

và dần trở thành ngôn ngữ duy


quan trường, nói lên tâm tư, tình

nhất trong sáng tác văn học.

cảm của đại đa số quần chúng.

-

Ngôn ngữ trong các tác phẩm
văn học hiện đại ngày càng trở
nên uyển chuyển, phong phú,
gần gũi với ngôn ngữ hàng ngày
hơn.

5. Sự du nhập của các phương pháp sáng tác phương Tây vào văn học Việt
Nam


-

Chủ nghĩa lãng mạn

• Ở Việt Nam, chủ nghĩa lãng mạn với tư các là 1 trào lưu văn học xuất hiện
những năm 30 của thế kỉ XX. Tiêu biểu cho trào lưu này là văn xuôi của Tự
lực văn đoàn và thơ ca của phong trào Thơ Mới.
• Chủ nghĩa lãng mạn đã tạo được một giai đoạn thơ ca giàu hương sắc với
nhiều phong cách và cá tính sáng tạo phong phú.
• Văn chương lãng mạn đậm nét cái tôi cá nhân, khẳng định cái tôi một cách
tích cực, xem cái tôi là chủ thể sáng tạo được khai thác không hề vơi.
-


Chủ nghĩa hiện thực

-

Chủ nghĩa tượng trưng

-

Chủ nghĩa tự nhiên



Anh/chị hiểu thế nào về khái niệm “hiện đại hóa” được dùng trong bài học. Những nhân tố nào đã tạo điều kiện cho văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến cách mạng tháng Tám năm 1945 đổi mới theo hướng hiện đại hóa?