Định lượng pepsinogen là gì

Xét nghiệm Pepsinogen là một trong những căn bệnh ung thư dạ dày phổ biến và thường gặp nhất tại Việt Nam cũng như trên toàn thế giới. Việc sàng lọc phát hiện sớm bệnh sẽ mang lại hiệu quả tích cực trong công tác phòng ngừa và điều trị. Sau đây, Medplus sẽ cung cấp cho bạn đọc cách phòng tránh về căn bệnh nguy hiểm này!

Xét nghiệm Pepsinogen được thực hiện ở những đối tượng nào

1. Xét nghiệm Pepsinogen là gì?

Pepsinogen [ PG] là tiền chất của pepsin – một enzyme được tiết ra bởi các tế bào niêm mạc dạ dày. Enzyme này có vai trò thủy phân protein dưới tác dụng hoạt hóa của acid clohydric. Ngoài được tiết vào trong dạ dày, một phần nhỏ nó sẽ được bài tiết vào máu.

Pepsinogen tồn tại dưới 2 dạng chính đó là pepsinogen I và pepsinogen II. Trong đó, pepsinogen I chủ yếu được tổng hợp bởi các tế bào của vùng đáy niêm mạc dạ dày.

Nồng độ hai dạng pepsinogen này trong máu sẽ cho thấy hoạt động và tình trạng sức khỏe bình thường. Hoặc tổn thương của các bộ phận trong niêm mạc dạ dày. Qua đó bác sĩ sẽ đánh giá được vị trí nào của dạ dày đang gặp những vấn đề tổn thương.

Xét nghiệm Pepsinogen

Trong trường hợp vùng niêm mạc đáy dạ dày bị tổn thương, hàm lượng pepsinogen huyết thanh I sẽ bị giảm và loại II không đổi. Tỷ lệ PG I/ II bị suy giảm tỷ lệ thuận với vùng đáy niêm mạc dạ dày bị teo lại. Như vậy dựa vào kết quả xét nghiệm pepsinogen I và tỷ lệ PG I/ II có thể chẩn đoán sớm nguy cơ bị viêm teo dạ dày. Và ung thư dạ dày ở một người nào đó.

2. Xét nghiệm Pepsinogen được thực hiện ở những đối tượng nào?

Theo thống kê tại Việt Nam, tỷ lệ người mắc ung thư dạ dày khá cao, nam giới chỉ đứng sau ung thư gan. Và ung thư phổi, ở nữ giới sau ung thư vú, ung thư trực tràng. Xét nghiệm pepsinogen thường được yêu cầu thực hiện đối với những người có các dấu hiệu của ung thư dạ dày như:

– Thường xuyên cảm thấy no rất nhanh sau khi ăn, hay bị đầy hơi, ợ hơi, chướng bụng, khó tiêu.

– Nôn và buồn nôn.

– Cơ thể mệt mỏi, chán ăn, ăn không ngon.

– Thấy đau ở vùng thượng vị.

– Gầy sút cân không rõ nguyên nhân.

– Đi ngoài thấy có máu trong phân hoặc phân màu đen.

– Tự sờ thấy có khối, cục cứng ở bụng.

Ngoài ra, những đối tượng có nguy cơ mắc ung thư dạ dày cũng có thể được tiến hành xét nghiệm. Như người mắc các bệnh lý viêm loét dạ dày – tá tràng, loét dạ dày tái phát nhiều lần. Người có thói quen ăn đồ ăn nhanh, đóng hộp sẵn, thịt cá hun khói, dưa cà muối lên men. Thói quen hút thuốc lá, uống rượu bia, người có tiền sử gia đình từng bị ung thư dạ dày.

Ung thư dạ dày

Đặc biệt những người nhiễm vi khuẩn Helicobacter Pylori [ HP] được coi là đối tượng có nguy cơ cao mắc ung thư dạ dày. Do đó việc thực hiện xét nghiệm pepsinogen để sàng lọc, phát hiện sớm ung thư là vô cùng cần thiết và có ý nghĩa lớn.

3. Giá trị xét nghiệm Pepsinogen bình thường là bao nhiêu?

Giá trị bình thường của pepsinogen I đó là > 70 ng/mL, pepsinogen II > 7,5 ng/mL và tỷ lệ PG I/ II > 3 ng/mL. Thông thường giá trị này ở nam sẽ cao hơn so với nữ giới.

Trong trường hợp kết quả pepsinogen I ≤ 70 ng/mL và tỷ lệ PG I/ II ≤ 3 ng/mL, đây được coi là giá trị cảnh báo đối với tiền ung thư và ung thư dạ dày.

Nếu hàm lượng pepsinogen I và tỷ lệ PG I/ II giảm mạnh chứng tỏ khả năng cao bệnh nhân bị viêm teo dạ dày. Đây là một dạng tổn thương tiền ung thư dạ dày. Nồng độ pepsinogen I càng giảm chứng tỏ mức độ viêm teo càng nặng. Điều này có ý nghĩa rất lớn trong việc phát hiện và chẩn đoán sớm ung thư dạ dày.

Nếu cả 3 yếu tố pepsinogen I, II và tỷ lệ PG I/ II đều đồng thời giảm mạnh chứng tỏ khả năng bệnh đã tiến triển đến giai đoạn ung thư. Tuy nhiên để chẩn đoán chính xác một người có mắc ung thư dạ dày hay không. Cần phải kết hợp với các kỹ thuật khác như nội soi dạ dày, chụp cắt lớp vi tính, …

Bên cạnh đó 3 yếu tố pepsinogen I, II và tỷ lệ PG I/ II còn giúp chẩn đoán phân biệt ung thư dạ dày.

Bài viết liên quan:

Nguồn tham khảo:

  • Xét nghiệm Pepsinogen và vai trò chẩn đoán sớm ung thư dạ dày

Theo Tổ chức Globocan thuộc WHO, năm 2012, có 952.000 ca ung thư dạ dày mới [chiếm 6,8% tổng số các loại K] được phát hiện trên toàn thế giới. 

Tỷ lệ K dạ dày xếp thứ 5 trong số các K, sau K phổi, vú, đại trực tràng và tuyến tiền liệt. Hơn 70% các ca K dạ dày xảy ra ở các nước đang phát triển và khoảng 50% xảy ra ở Đông Á, chủ yếu là Trung Quốc. Tỷ lệ mắc K dạ dày từ 3,3 đối với nam và 2,6 đối với nữ ở Tây Phi đến 35,4 đối với nam và 13,8/100.000 đối với nữ ở Đông Á.
K dạ dày là nguyên nhân gây tử vong thứ ba ở cả hai giới trên thế giới, với 723.000 ca tử vong [chiếm 8,8%] trong năm 2012. Tỷ lệ tử vong do K dạ dày cao nhất xảy ra ở Đông Á [24/100.000 đối với nam và 9,8/100.000 đối với nữ].
Tại Việt Nam, K dạ dày có tỷ lệ mắc vào loại cao nhất thế giới [>15,4/100.000 đối với nam và >8,2/100.000 đối với nữ] . Mỗi năm Việt Nam phát hiện khoảng 10.000 ca K dạ dày.
Các yếu tố nguy cơ của K dạ dày có thể gồm: nhiễm Helicobacter pylori [65-80%], tiền sử gia đình bị K dạ dày [10%], tuổi [74 ở nam, 74 ở nữ] uống rượu, hút thuốc lá, ăn nhiều muối, béo phì, …
Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng viêm teo dạ dày [atrophic gastritis] và chuyển sản ruột [intestinal metaplasia] là các tổn thương tiền ung thư [precancerous lesions] của ung thư dạ dày.
Nếu được chẩn đoán ở giai đoạn sớm tỷ lệ sống sót trên 5 năm của bệnh nhân K dạ dày vượt quá 90%.
Các phương pháp chẩn đoán viêm teo dạ dày và chuyển sản ruột là nội soi dạ dày, mô bệnh học và định lượng PG1, PG2 và tỷ lệ PG1/PG2.

1. Sinh học của pepsinogen

Pepsinogen [PG] là tiền enzyme [proenzyme] của pepsin - một enzyme thủy phân protein- được bài tiết bởi các tế bào niêm mạc của dạ dày. Pepsinogen là một protein gồm 375 gốc acid amin, có khối lượng phân tử 42 kDa. Pepsinogen được tồn tại dưới hai dạng: pepsinogen I [PG I] và pepsinogen II [PG II]. Pepsinogen I được tổng hợp bởi các tế bào chính của niêm mạc ở vùng đáy dạ dày, trong khi PG II được tổng hợp bới các tế bào niêm mạc của tất cả các vùng tâm vị, vùng đáy, vùng hang vị và của hành tá tràng [Mukoubayashi C, et al 2007 [8]] [Hình 1].


Hình : Sự sản xuất pepsinogen I [màu đỏ] và pepsinogen 2 [màu vàng] ở các vùng khác nhau của dạ dày và hành tá tràng: 1: vùng tâm vị [cardia], 2: vùng đáy vị [fundus], 3: vùng hang môn vị [pylonic antrum], 4: hành tá tràng [duodenum].

Pepsinogen không chỉ được tiết vào trong lòng dạ dày, được thủy phân thành pepsin nhờ tác dụng hoạt hóa của acid chlohydric của dạ dày để thủy phân protein thức ăn, mà một phần nhỏ còn được bài tiết vào máu. Mức độ của hai loại pepsinogen I và II huyết thanh phản ánh tình trạng hình thái và chức năng của các phần khác nhau của niêm mạc dạ dày-hành tá tràng. Khi hoạt động của niêm mạc vùng đáy dạ dày bị giảm, mức đô pepsinogen I huyết thanh giảm, trái lại mức độ PGII huyết thanh không thay đổi. Kết quả là, sự giảm dần của tỷ số PGI/PGII liên quan chặt chẽ với sự tiến triển tăng dần từ niệm mạc vùng đáy bình thường thành viêm teo dạ dày, lúc này số lượng tế bào chính giảm đi. Chính vì vậy, sự giảm mức độ pepsinogen I huyết thanh và tỷ lệ PGI/II có thể được sử dụng để đánh giá nguy cơ và phát hiện sớm ung thư dạ dày ở bệnh nhân.

2. Chỉ định của xét nghiệm PGI, II và tỷ lệ PGI/PGII

- Các xét nghiệm pepsinogen I, II và tỷ lệ PGI/II được sử dụng để sàng lọc và chẩn đoán ung thư dạ dày nên thường được chỉ định khi bệnh nhân có các triệu chứng sớm của ung thư dạ dày như:


+ Khó tiêu dai dẳng
+ Ợ hơi
+ Cảm thấy no rất nhanh khi ăn
+ Đầy hơi sau khi ăn
+ Mệt mỏi
+ Đau vùng thượng vị
+ Nôn


Các xét nghiệm này cũng có thể được chỉ định khi bệnh nhân có các triệu chứng muộn của ung thư dạ dày như:
+ Xuất hiện máu trong phân hoặc phân đen
+ Ăn mất ngon
+ Giảm cân
+ Ứ dịch trong dạ dày
+ Thiếu máu
+ Vàng da, vàng mắt

3. Giá trị tham chiếu của PGI, II và tỷ lệ PGI/PGII

Giá trị bình thường của mức độ PGI huyết thanh ở những người khỏe mạnh là: PGI là 215,7 ± 15,0 ng/mL, của PGII là 18,3 ± 2,0 ng/mL và của PGI/PGII là 13,2 ± 0,6 [De Re, et al 2016].

Mức độ PGI, PGII và tỷ lệ PGI/II ở nam cao hơn ở nữ và tăng dần theo tuổi [Huang RG, et al 2016 ].

Giá trị cắt [cut-off] bình thường của mức độ PGI huyết thanh được sử dụng rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới là > 70 ng/mL, của PGII là 7,5 ng/mL và của tỷ lệ PGI/II là > 3.


 

4. Chiến lược sàng lọc viêm teo và ung thư dạ dày

4.1. Mức độ nguy cơ ung thư dạ dày đánh giá theo PGI, PGII, tỷ lệ PGI/PGII và trạng thái Hp.

Mức độ nguy cơ K dạ dày đánh giá theo PGI, PGII, tỷ lệ PGI/PGII và trạng thái Hp được chia thành 4 nhóm với các cut-off PGI

Chủ Đề