Đền thờ và lăng mộ kinh dương vương ở đâu
Kinh Dương Vương (chữ Hán: 涇陽王, 2919 TCN - 2792 TCN) là con của Đế Minh, tức em trai ruột của Đế Nghi (Đế Nghi cũng là con trai của Đế Minh), cháu nội của Đế Thừa, cháu 3 đời của Thần Nông. Kinh Dương Vương (tên húy là Lộc Tục) thuộc dòng dõi vua Thần Nông vốn được suy tôn là thủy tổ của người Bách Việt. Sử chép Kinh Dương Vương tên húy là Lộc Tục (祿續), là người hình thành nhà nước sơ khai đầu tiên vào năm Nhâm Tuất 2879 TCN, đặt quốc hiệu là Xích Quỷ. Lãnh thổ của quốc gia dưới thời Kinh Dương Vương rộng lớn, phía bắc tới sông Dương Tử (cả vùng hồ Động Đình), phía nam tới nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía đông là Đông Hải (một phần của Thái Bình Dương), phía tây là Ba Thục (Tứ Xuyên, Trung Hoa ngày nay). Kinh Dương Vương truyền ngôi cho con là Lạc Long Quân (tên húy là Sùng Lãm).
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, thì Kinh Dương Vương: Nguyên Đế Minh là cháu ba đời của vua Thần Nông, đi tuần thú phương Nam đến núi Ngũ Lĩnh (Hồ Nam, Trung Quốc) đóng lại đó rồi cưới con gái của Vụ tiên nữ (鶩僊女),[2] sau đó sinh được một người con trai tư chất thông minh đặt tên là Lộc Tục (祿續).
Sau Đế Minh truyền ngôi cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương Bắc và phong cho Lộc Tục làm vua phương Nam xưng là Kinh Dương Vương (chữ Hán: 涇陽王). Theo Đại Việt sử ký toàn thư thì Kinh Dương Vương làm vua và cai trị từ khoảng năm 2879 TCN trở đi.[1] Địa bàn của quốc gia dưới thời vua Kinh Dương Vương rộng lớn, phía Bắc tới sông Dương Tử (cả vùng hồ Động Đình), phía Nam tới nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía Đông là Biển Đông (một phần của Thái Bình Dương) và phía Tây là Ba Thục (Tứ Xuyên, Trung Quốc ngày nay). Lĩnh Nam chích quái ghi lại truyền thuyết vua đánh đuổi thần Xương Cuồng dũng mãnh, trừ hại cho dân.
Ông lấy con gái vua hồ Động Đình tên là Thần Long,[a] sinh được một con trai đặt tên là Sùng Lãm, nối ngôi làm vua xưng là Lạc Long Quân.
Theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục:
Chuẩn tấu những lời của sử quan, vua Tự Đức đã nhận định đây là những "câu truyện đề cập đến ma trâu, thần rắn, hoang đường không có chuẩn tắc" và cương quyết loại Kinh Dương và Lạc Long ra khỏi chính sử bằng cách đưa xuống phụ chú dưới niên kỷ Hùng vương, để "cho hợp với cái nghĩa lấy nghi truyền nghi". Còn Liam Christopher Kelley nhận xét:
Việc thờ cúng Kinh Dương Vương ở Việt Nam không phổ biến bằng tín ngưỡng thờ cúng Thần Nông, vị thần là cụ thủy tổ của Hùng Vương đồng thời là vị thần rất được sùng bái trong tín ngưỡng nông nghiệp ở Việt Nam; được các triều đại phong kiến lập Đàn Xã Tắc để tế lễ hàng năm. Di tích đình Thượng Lãng ở xã Minh Hòa, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình là di tích cổ nhất thờ Kinh Dương Vương; tương truyền có từ thời nhà Đinh. Lăng và Đền thờ Kinh Dương vương ở Bắc Ninh từ lâu đã được các triều đại Phong kiến Việt Nam xếp vào loại miếu thờ các bậc Đế vương, mỗi lần Quốc lễ đều cho quân đến tế lễ, dân thờ phụng trang trọng. Năm 2013, tỉnh Bắc Ninh công bố quy hoạch bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị quần thể di tích lịch sử văn hóa quốc gia Lăng và Đền thờ Kinh Dương vương với tổng mức đầu tư khoảng hơn 491 tỷ đồng.[5] Dự án chia làm 4 hạng mục xây dựng chính gồm: Không gian bảo tồn di tích, tập trung tu bổ, tôn tạo di tích Lăng và Đền thờ Kinh Dương vương sân đền, vườn khu lăng mộ; không gian giá trị di tích gồm: Tượng đài thủy tổ, quảng trường văn hóa lễ hội, nhà trưng bày văn hóa... đi kèm các dịch vụ phụ trợ để phát triển du lịch văn hóa tâm linh, thu hút du khách và hạ tầng kỹ thuật, san nền, đường giao thông, đường điện.[6] Hiện nay khu di tích lăng mộ và đền thờ Kinh Dương Vương được thờ phụng tại thôn Á Lữ, xã Đại Đồng Thành, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Theo Giáo sư Lê Quang Châu biệt hiệu Hồng Nguyên Tử, khi ngồi chơi bên bờ sông Đuống, dưới chân mộ thủy tổ Kinh Dương Vương, ông kể rằng: "Trẻ con nước ta có trò chơi, bắt đầu từ bài đồng dao “Chi chi chành chành, cái đanh thổi lửa, con ngựa chết trương, ba vương ngũ đế, chấp chế đi tìm, ú tim bắt được, ù à ù ập”".[7] Ông giải mã bài đồng dao đó như sau: Chi chi là chi nọ (trong một tộc họ) nối chi kia. Chành chành là nếu không có chi kế tiếp thì “chành” sang họ trực hệ hoặc đồng tông. “Cái đanh thổi lửa” là biểu hiện thời cổ xưa có ông Toại Nhân dùng dùi đá lấy lửa. “Con ngựa chết trương” là hình ảnh chuyện nhân vật Hiên Viên phản vua Thần Nông, giết vua và mười bốn người, cướp ngôi, tự xưng chính mình là hậu duệ, phạm vào lời nguyền “Bắc Nam không xâm phạm nhau”, gây nên cảnh “người và ngựa chết trương đầy đồng nội”. “Ba vương Ngũ đế”, nói trước về ngũ đế là năm vị tổ của Kinh Dương Vương gồm Đế Thiên (Phục Hy), Đế Thích (Thần Nông), Đế Khôi (Viêm Đế, viêm là lửa), Đế Tiết (Hoàng Đế, vị vua đã phạm lời nguyền), Đế Thức (Thần Đế). Ba vương là ba vua anh em ruột dòng dõi Đế Thức: Vua Minh, vua Lai và vua Long Cảnh. Vua cả tên Minh đã đặt tên nước ta thời ấy là Xích Quỷ, xích là đỏ, màu lửa để chỉ rằng đây là dòng dõi của Viêm Đế, quỷ là một trong 28 ngôi sao, tượng trưng phương nam (không phải quỷ là ma quái). “Chấp chế đi tìm” kể từ Ba vương ngũ đế đã chấp nhận đi tìm một thể chế để có thể xây dựng cơ đồ bền vững. “Ú tim bắt được”, bắt được chế độ liên hiệp trăm họ lại, tạo dựng nên nhà nước Văn Lang. “Ù à ù ập” là tán thán từ tỏ dấu hiệu vui mừng.[8] Tên Kinh Dương Vương được đặt cho một số con đường tại Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Bắc Ninh, huyện Thuận Thành (tỉnh Bắc Ninh), thị xã Hồng Lĩnh, thành phố Đà Nẵng,... Tại Thành phố Hồ Chí Minh đường Kinh Dương Vương bắt đầu từ bùng binh Phú Lâm quận 6, đi ngang cổng chính Bến xe khách miền Tây và kết thúc tại vòng xoay An Lạc quận Bình Tân Tại Bắc Ninh, đường Kinh Dương Vương nối từ đường Ngô Gia Tự chạy ngang qua Trung tâm văn hóa Kinh Bắc và kết thúc tại đường Đấu Mã. Còn đường Kinh Dương Vương thứ 2 là quốc lộ 38 từ Cầu Hồ tới ngã tư Đông Côi huyện Thuận Thành. Tại thị xã Hồng Lĩnh đường Kinh Dương Vương dài khoảng 3,3 km. Tại Đà Nẵng đường Kinh Dương Vương dài khoảng 2,1 km thuộc địa bàn phường Hòa Minh quận Liên Chiểu. Nhiều nhà nghiên cứu lịch sử và Hán Nôm gần đây nghi vấn Kinh Dương Vương là một nhân vật huyền thoại, có nguồn gốc tiểu thuyết Liễu Nghị truyện. Trần Trọng Dương, một nhà nghiên cứu lịch sử trong một bài viết vào năm 2013 đã chỉ ra rằng:[9]
Quan điểm này được cho là phù hợp với nhiều sử gia thời Nguyễn (ví dụ như Ngô Thì Sĩ trong cuốn Đại Việt Sử kí Tiền biên,[10] hay trong Khâm định Việt sử thông giám cương mục[11]) và được nhiều nhà nghiên cứu lịch sử và Hán Nôm ủng hộ. Tuy nhiên, cũng có nhiều nhà nghiên cứu lịch sử phản đối cách nhìn này.[12]
Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Kinh_Dương_vương&oldid=68424615” |