Đặc điểm của ngân hàng nhà nước Việt Nam

Ở mỗi quốc gia, ngân hàng nhà nước có thể có những tên gọi khác nhau xuất phát từ các yếu tố lịch sử, sở hữu, thể chế chính trị. Chẳng hạn như, theo hình thức sở hữu, ngân hàng nhà nước có tên gọi là ngân hàng nhà nước (Việt nam), Ngân hàng quốc gia (Mônđôva, Iran, Hunggari). Theo tính chất, chức năng, ngân hàng có thể được gọi tên là ngân hàng trung ương (Liên bang Nga), ngân hàng dự trữ (Nam phi), Hệ thống dự trữ liên bang (Mỹ) hoặc có thể chỉ là những tên gọi có tính chất lịch sử và kế thừa như Ngân hàng Anh, Ngân hàng Pháp, Ngân hàng Nhật Bản[1]…

Dù tên gọi có khác nhau nhưng phương thức hoạt động tính chất, chức năng của các ngân hàng mang bản chất là ngân hàng nhà nước hầu như giống nhau, có những điểm tương đồng và xuất phát từ những nguyên tắc tổ chức chung nhất.

Phần lớn luật về ngân hàng của các quốc gia đều đưa ra khái niệm về ngân hàng nhà nước hoặc thông qua những quy phạm pháp luật xác định đặc điểm, chức năng để thể hiện khái niệm về ngân hàng nhà nước.  Một cách chung nhất, ngân hàng nhà nước được hình dung như sau:

-Ngân hàng nhà nước là một cơ quan nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng.

-Ngân hàng nhà nước là một định chế hành chính thực hiện chức năng cung ứng các dịch vụ ngân hàng cho chính phủ và cho hệ thống các tổ chức tín dụng.

-Ngân hàng trung ương không lấy mục đích lợi nhuận làm hàng đầu.

-Ngân hàng trung ương là cầu nối giữa chính phủ với nền kinh tế, giữa thị trường tài chính, tiền tệ trong nước và ngoài nước, các tổ chức tài chính quốc tế.

Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, khái niệm Ngân hàng nhà nước Việt Nam được hiểu như sau:

Ngân hàng nhà nước Việt Nam là cơ quan của Chính phủ và là Ngân hàng Trung ương của nước CHXHCN Việt Nam. Ngân hàng nhà nước Việt Nam thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng; đồng thời, đây còn là ngân hàng phát hành tiền, ngân hàng cuả các tổ chức tín dụng và ngân hàng làm dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ. Hoạt động ngân hàng nhà  nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền, góp phần bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng, thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội theo định hướng XHCN. Ngân hàng nhà nước là một pháp nhân, có vốn pháp định thuộc sở hữu nhà nước và có trụ sở chính tại thủ đô Hà nội.[2]
Từ khái niệm trên có thể nhận thấy:

-NHNNVN Cơ quan quản lý nhà nước. NHNNVN là cơ quan ngang bộ, trực thuộc Chính Phủ, Thống đốc NHNNVN mang hàm Bộ trưởng. NHNNVN được tổ chức và hoạt động theo những qui định tại các văn bản pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động của Chính phủ. Qui trình bổ nhiệm, miễn nhiệm Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam theo các qui định pháp luật hiện hành trong Luật Tổ chức Quốc Hội và Luật tổ chức Chính Phủ.

-NHNNVN quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Với tư cách là cơ quan quản lý nhà nước, NHNNVN sử dụng các phương thức và  công cụ quản lý khi thực thi nhiệm vụ của mình,

-Ngân hàng nhà nước Việt Nam là Ngân hàng trung ương. Đây là điểm khác biệt giữa NHNNVN với các Bộ khác trong Chính Phủ. Ngân hàng nhà nước Việt Nam còn là một Ngân hàng. Ngân hàng này thực hiện một số hoạt động ngân hàng đặc biệt, bao gồm: hoạt động độc quyền phát hành tiền; cung ứng các dịch vụ tài chính, tiền tệ cho Chính phủ và cho các tổ chức tín dụng.

-Về mặt dân sự, NHNNVN là một pháp nhân. NHNNVN có vốn pháp định thuộc sở hữu nhà nước, Thủ tướng Chính phủ qui định mức vốn pháp định của NHNNVN phù hợp trong từng thời kỳ. NHNNVN hoạt động theo nguyên tắc Chênh lệch thu, chi hàng năm của Ngân hàng Nhà nước được xác định từ nguồn thu về hoạt động nghiệp vụ ngân hàng và các nguồn thu khác, sau khi trừ chi phí hoạt động và khoản dự phòng rủi ro. Ngân hàng Nhà nước trích từ chênh lệch thu, chi để lập quỹ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia theo quy định của Chính phủ; số còn lại phải nộp vào ngân sách nhà nước.  

[1] Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Ngân hàng, NXB Công an nhân dân, 2006, tr 27.

[2] Điều 1 Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 1997 (sửa đổi, bổ sung 2003).


Các từ khóa trọng tâm hoặc các thuật ngữ liên quan đến bài viết trên:
  • chưc năng cua ngân hang nha nươc
  • ngân hàng nhà nước là gì
  • khai niem ngan hang nha nuoc
  • khái niêmo ngân hàng nhà nươc
  • ngân hàng nhà nước làm gì
  • ,

    Hoàn thiện quy trình, thủ tục giám sát ngân hàng nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động giám sát ngân hàng

    Trần Đăng Phi1

    Sự phát triển của khu vực ngân hàng và thị trường tài chính với hàng loạt các loại hình dịch vụ hiện đại kéo theo không ít những rủi ro tiềm ẩn. Thực tiễn công tác giám sát ngân hàng cho thấy, để nắm bắt được thường xuyên thực trạng hoạt động của các tổ chức tín dụng (TCTD), đặc biệt là tình hình tài chính, các yếu tố dẫn đến rủi ro gây mất an toàn hệ thống; xử lý kịp thời những vấn đề nghiêm trọng xảy ra, tránh lây lan dây chuyền, gây rối loạn cho nền kinh tế, cần phải có phương pháp giám sát, công cụ giám sát phù hợp. Theo đó, hoạt động giám sát phải được xem là phương thức thanh tra, giám sát chủ yếu bởi tính tích cực của nó trong việc cảnh báo sớm và phòng ngừa rủi ro nhằm đảm bảo an toàn hoạt động đối với toàn bộ hệ thống nói chung và từng TCTD nói riêng. Việc nghiên cứu, hoàn thiện quy trình, thủ tục giám sát ngân hàng là đòi hỏi cấp thiết xuất phát từ yêu cầu đổi mới về hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng đáp ứng yêu cầu phát triển của hệ thống ngân hàng và phù hợp hơn với thông lệ quốc tế.

    1. Vai trò của công tác giám sát ngân hàng và yêu cầu hoàn thiện quy trình, thủ tục giám sát ngân hàng

    Hoạt động giám sát ngân hàng được quy định tại Luật Ngân hàng Nhà nước (NHNN) năm 2010 (Khoản 12, Điều 6) là “hoạt động của NHNN trong việc thu thập, tổng hợp, phân tích thông tin về đối tượng giám sát ngân hàng thông qua hệ thống thông tin, báo cáo nhằm phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời rủi ro gây mất an toàn hoạt động ngân hàng, vi phạm quy định an toàn hoạt động ngân hàng và các quy định khác của pháp luật có liên quan”.

    Về hình thức, giám sát ngân hàng được tiến hành thông qua giám sát an toàn vi mô và giám sát an toàn vĩ mô, trong đó giám sát an toàn vi mô được hiểu là hình thức giám sát an toàn đối với từng TCTD riêng lẻ và giám sát an toàn vĩ mô là hình thức giám sát an toàn toàn bộ hệ thống các TCTD (giám sát an toàn hệ thống). Tại Nghị định số 26/2014/NĐ-CP ngày 07/4/2014 về tổ chức và hoạt động của thanh tra, giám sát ngân hàng có quy định giám sát ngân hàng được tiến hành thường xuyên, liên tục thông qua giám sát an toàn vĩ mô, giám sát an toàn vi mô và sử dụng các phương pháp, tiêu chuẩn, công cụ giám sát và hệ thống thông tin, báo cáo do Thống đốc NHNN quy định, trong đó:

    Giám sát an toàn vi mô: Là hình thức giám sát an toàn đối với từng đối tượng giám sát riêng lẻ, được thực hiện trên cơ sở hệ thống xếp hạng, đánh giá đối tượng giám sát ngân hàng; hệ thống thông tin, báo cáo phục vụ giám sát an toàn vi mô; các chuẩn mực an toàn; hệ thống quy trình, công cụ, tiêu chuẩn và các kỹ năng phân tích tài chính, hoạt động; đánh giá, giám sát và cảnh báo các loại rủi ro, vi phạm pháp luật của đối tượng giám sát ngân hàng;

    Giám sát an toàn vĩ mô: Là hình thức giám sát an toàn toàn bộ hệ thống các TCTD được thực hiện trên cơ sở hệ thống chỉ tiêu phản ánh mức độ lành mạnh tài chính và an toàn hoạt động; hệ thống thông tin, báo cáo phục vụ phân tích và giám sát an toàn vĩ mô; hệ thống phương pháp, công cụ, quy trình phân tích, giám sát, cảnh báo sự an toàn, ổn định của hệ thống các TCTD; báo cáo định kỳ hoặc đột xuất về an toàn và ổn định hệ thống.

    Đây là hai hình thức giám sát không thể tách rời nhau, sẽ là không đầy đủ nếu chỉ xem xét, đánh giá mức độ an toàn, lành mạnh của toàn bộ hệ thống các TCTD theo các phân tích tổng hợp mà không xem xét tới từng TCTD riêng lẻ do đặc điểm lan truyền rủi ro trong hoạt động ngân hàng. Ở chiều ngược lại, việc chỉ xem xét, đánh giá từng TCTD sẽ không có được cái nhìn hệ thống, phân tích tác động của hoạt động ngân hàng lên nền kinh tế để từ đó có các quyết sách đúng đắn vừa thúc đẩy, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, vừa đảm bảo an toàn hệ thống.

    Về phương pháp giám sát là phương pháp định hướng cho hoạt động giám sát của ngân hàng trung ương (NHTƯ) đối với các TCTD. Căn cứ vào tính chất đặc thù hoạt động cũng như trình độ phát triển của hệ thống ngân hàng mà mỗi NHTƯ có các phương pháp giám sát khác nhau, tuy nhiên, về cơ bản thì hiện nay các TCTD trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng có 02 phương pháp: (i) Phương pháp giám sát tuân thủ; và (ii) Phương pháp giám sát trên cơ sở rủi ro. Theo đó:

    - Phương pháp giám sát tuân thủ: Đây là phương pháp mà NHTƯ sử dụng để kiểm tra và theo dõi việc tuân thủ của các TCTD về quy định pháp luật liên quan tới an toàn hoạt động ngân hàng. Theo đánh giá của các chuyên gia của Tổ chức hỗ trợ kỹ thuật Đức (GIZ) thì Phương pháp tuân thủ thường được dùng ở những giai đoạn mà hoạt động ngân hàng đơn thuần là những hoạt động truyền thống, các dịch vụ ngân hàng hiện đại chưa phát triển, số lượng ngân hàng chưa nhiều.

    - Phương pháp giám sát dựa trên rủi ro: Đây là phương pháp được xây dựng dựa trên việc giám sát hoạt động chung của TCTD thông qua việc đánh giá các loại rủi ro mà TCTD đang và sẽ gặp phải như rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro hoạt động, rủi ro thị trường, rủi ro pháp lý…

    Phương pháp giám sát dựa trên rủi ro thường được áp dụng tại các quốc gia mà hoạt động ngân hàng tương đối phát triển, hoạt động ngân hàng không còn bao gồm các hoạt động truyền thống mà còn mở rộng các loại hoạt động và dịch vụ ngân hàng hiện đại. Theo các chuyên gia ngân hàng, phương pháp này đòi hỏi phải có một sự phát triển đồng bộ về hệ thống cơ sở pháp lý, về hệ thống quản lý thông tin, các công cụ định lượng và trình độ của cán bộ giám sát ngân hàng, đặc biệt là khả năng phân tích và sử dụng các công cụ định lượng.

    Trên cơ sở phân tích khái niệm và bản chất hoạt động TCTD cũng như vai trò của các TCTD đối với nền kinh tế, đặc biệt tính nhạy cảm, dễ bị tổn thương trước các cuộc khủng hoảng tài chính, có thể nhận thấy, hoạt động giám sát của NHTƯ đối với các TCTD có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự ổn định của nền kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng, bởi lẽ:

    Thứ nhất, ngăn ngừa và hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại

    Hoạt động ngân hàng có vai trò hết sức cần thiết đối với các thành phần kinh tế, thực tiễn cho thấy, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, các hoạt động ngân hàng ngày càng được mở rộng và phát triển với nhiều tiện ích, đáp ứng yêu cầu của người dân và doanh nghiệp. Nhiều nhà kinh tế còn quan niệm “ngân hàng là người bạn đồng hành trong cuộc sống của người dân và các tổ chức kinh tế”, tuy nhiên, việc mở rộng quy mô cũng như đa dạng hóa các sản phẩm, dịch vụ của mình, các TCTD luôn phải đối mặt với rủi ro. Việc chấp nhận mở rộng và phát triển kinh doanh của các TCTD cũng đồng nghĩa với việc xuất hiện các rủi ro trong kinh doanh. Vì mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, các TCTD sẵn sàng chấp nhận rủi ro cao để đạt được mục tiêu của mình. Nếu rủi ro xảy ra, cũng đồng nghĩa với việc các TCTD phải đối mặt với nguy cơ sụt giảm uy tín, mất khả năng thanh khoản, và thậm chí là đi tới phá sản hay đóng cửa. Điều này đòi hỏi hoạt động ngân hàng phải được sự giám sát chặt chẽ của cơ quan quản lý để tránh các nguy cơ đổ vỡ, đảm bảo sự an toàn lành mạnh cho hệ thống nói chung và từng TCTD nói riêng.

    Việc giám sát chặt chẽ các TCTD sẽ giúp cho các TCTD giảm thiểu được rủi ro đối với từng ngân hàng và giúp cho các TCTD hoạt động an toàn, đảm bảo được khả năng chi trả cũng như nghĩa vụ thanh toán của nó tại những thời điểm xác định. Hơn thế nữa, việc giám sát các TCTD bởi các cơ quan quản lý cũng sẽ đảm bảo rằng các TCTD có đủ mức vốn để trụ vững trước những tác động bất lợi từ môi trường bên ngoài cũng như bên trong của TCTD (Lingdgren 1996). Ngoài ra, việc giám sát chặt chẽ các TCTD còn có vai trò tích cực tới nâng cao trách nhiệm của các TCTD trong việc tăng cường năng lực quản trị rủi ro trong các NHTM, đảm bảo ứng phó tốt nhất đối với sự thay đổi của môi trường kinh doanh.

    Theo Sluijs (2006), việc giám sát các TCTD không chỉ đơn thuần là đảm bảo cho từng TCTD hoạt động an toàn mà còn đảm bảo sự ổn định của toàn bộ hệ thống. Việc giám sát các TCTD sẽ giúp cơ quan chức năng sớm xác định những nguy cơ tiềm tàng có thể làm tổn thương đến hệ thống ngân hàng, trên cơ sở đó đưa ra các biện pháp nhằm ngăn chặn sớm sự bất ổn của hệ thống. Hơn thế nữa, việc giám sát còn giúp cho hệ thống ngân hàng phát triển an toàn, ổn định, thực hiện tốt và hiệu quả việc phân bổ nguồn lực tài chính từ khu vực tiết kiệm đến khu vực đầu tư, các loại rủi ro tài chính được giám sát, đánh giá và quản lý một cách hiệu quả để đảm bảo hệ thống tránh được sự đổ vỡ hàng loạt với số lượng lớn các định chế tài chính.

    Thứ hai, bảo vệ quyền lợi người gửi tiền

    Ngân hàng thương mại là nơi tích trữ tiền tiết kiệm hàng đầu của công chúng, đặc biệt là tiết kiệm của cá nhân và hộ gia đình, việc thất thoát các khoản vốn này trong trường hợp ngân hàng phá sản sẽ trở thành thảm họa cho nhiều cá nhân và hộ gia đình (Huệ 2011). Trong khi đó, người gửi tiền lại thiếu kiến thức chuyên môn về tài chính và thiếu thông tin cần thiết để đánh giá chính xác mức độ rủi ro của ngân hàng, do đó, việc giám sát hoạt động của các NHTM sẽ giúp cho cơ quan quản lý có được những thông tin cần thiết để xác định tình trạng tài chính của ngân hàng để từ đó có những giải pháp phù hợp bảo vệ quyền lợi người gửi tiền.

    Thực tế cho thấy, khi ngân hàng đổ vỡ và lây lan đến cả hệ thống ngân hàng, ảnh hưởng và tác động tiêu cực tới công chúng và toàn xã hội là rất lớn. Do đó, các Chính phủ thường phải bỏ tiền để ngăn chặn và khắc phục hậu quả, thống kê của các tổ chức quốc tế như Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) hay Ngân hàng Thế giới (WB) thì chi phí bỏ ra để ngăn ngừa sự đổ vỡ của hệ thống ngân hàng và đảm bảo quyền lợi người gửi tiền không dưới 20% GDP.

    Thứ ba, nâng cao hiệu quả thực thi chính sách tiền tệ

    Các TCTD cần được quản lý chặt chẽ bởi khả năng tạo tiền từ những khoản tiền gửi từ các cá nhân và tổ chức kinh tế thông qua hoạt động cho vay và đầu tư. Sự thay đổi trong khối lượng tiền tệ do hệ thống ngân hàng tạo ra sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới công tác điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) cũng như các mục tiêu kinh tế vĩ mô đặt ra. Bên cạnh đó, các rủi ro liên quan đến ngân hàng như nợ xấu cao, mất vốn, mất khả năng chi trả… cũng ảnh hưởng đến ổn định xã hội và gây ra tình trạng bất ổn kinh tế vĩ mô như lạm phát hay cản trở tăng trưởng kinh tế. Do vậy, việc giám sát chặt chẽ các TCTD sẽ giúp cho Chính phủ và NHTƯ có thể thực thi CSTT một cách hiệu quả và đạt được các mục tiêu đề ra trong ngắn hạn cũng như trung và dài hạn. Hơn nữa, việc giám sát hoạt động ngân hàng thương mại còn làm tăng niềm tin của công chúng đối với hệ thống tài chính, đảm bảo các khoản tiết kiệm được tập trung cho đầu tư sản xuất và đảm bảo thanh khoản cho nền kinh tế.

    Thứ tư, đảm bảo cạnh tranh bình đẳng

    Rose (2001), Huệ (2011) và các nhà kinh tế học chỉ ra rằng, các ngân hàng cần chịu sự quản lý và giám sát của các cơ quan chức năng bởi lẽ chúng cung cấp cho cá nhân và doanh nghiệp những khoản vay, tài trợ tiêu dùng hoặc tài trợ đầu tư. Xã hội sẽ thu được những lợi ích to lớn nếu như hệ thống ngân hàng cung cấp một lượng tín dụng thích hợp và đúng địa chỉ. Tuy nhiên, khi có sự phân biệt đối xử trong việc cấp tín dụng, các cá nhân, doanh nghiệp bị phân biệt đối xử sẽ phải đối mặt với không ít khó khăn, điều này có thể ảnh hưởng đến môi trường cạnh tranh và nền kinh tế nói chung. Do vậy, việc giám sát các TCTD sẽ giúp cơ quản quản lý hạn chế và từng bước loại bỏ tình trạng phân biệt đối xử trong việc cung cấp các dịch vụ tài chính. Ngoài ra, việc giám sát cũng giúp cho Chính phủ và NHTƯ ngăn chặn việc tập trung tiềm lực tài chính và tay một số ít cá nhân hay tổ chức, gây ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế và thị trường cạnh tranh.

    2. Sự cần thiết phải hoàn thiện quy trình, thủ tục giám sát ngân hàng

    Sau khi Luật NHNN 2010 ra đời, các văn bản pháp luật dưới Luật lần lượt được xây dựng nhằm cụ thể hóa tinh thần của Luật và hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hoạt động quản lý của NHNN nói chung và hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng hàng nói riêng. Cụ thể, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 26/2014/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của thanh tra, giám sát ngân hàng và Quyết định số 35/2014/QĐ-TTg về việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng (CQTTGSNH) thay thế Quyết định số 83/2009/QĐ-TTg; qua đó, đã hoàn chỉnh thêm một bước về tổ chức và hoạt động của thanh tra, giám sát ngân hàng.

    Theo đó:

    - CQTTGSNH là đơn vị tương đương Tổng cục, trực thuộc NHNN, thực hiện chức năng tham mưu, giúp Thống đốc NHNN quản lý nhà nước đối với các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng, phòng, chống rửa tiền, bảo hiểm tiền gửi; tiến hành thanh tra hành chính, thanh tra chuyên ngành và giám sát ngân hàng trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của NHNN; thực hiện phòng, chống rửa tiền, phòng, chống tài trợ khủng bố theo quy định của pháp luật và phân công của Thống đốc NHNN.

    - Thanh tra, giám sát NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố là đơn vị thuộc cơ cấu tổ chức của NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố, giúp Giám đốc NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố quản lý nhà nước, tiến hành thanh tra hành chính, thanh tra, giám sát ngân hàng, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng, phòng, chống rửa tiền, phòng, chống tài trợ khủng bố đối với các đối tượng quản lý, thanh tra và giám sát ngân hàng trên địa bàn theo sự phân công, phân cấp, ủy quyền của Thống đốc NHNN và theo quy định của pháp luật.

    - Hệ thống tổ chức của thanh tra, giám sát ngành Ngân hàng bao gồm CQTTGSNH và thanh tra, giám sát NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố. Thanh tra, giám sát ngành Ngân hàng được thực hiện theo nguyên tắc thanh tra, giám sát toàn bộ hoạt động của tổ chức tín dụng và kết hợp thanh tra, giám sát việc chấp hành chính sách, pháp luật về tiền tệ và ngân hàng với thanh tra, giám sát rủi ro trong hoạt động của đối tượng thanh tra, giám sát ngân hàng.

    - Giám sát rủi ro trong hoạt động ngân hàng là một trong những nội dung mới và đã được Luật NHNN 2010 quy định, nên cần thiết phải ban hành văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) quy định về giám sát ngân hàng để thay thế VBQPPL về giám sát từ xa đối với các TCTD được ban hành từ năm 1999 đã không còn phù hợp với Luật NHNN 2010.

    - Ngoài ra, Nghị định 26/2014/NĐ-CP cũng quy định về hình thức giám sát an toàn vi mô và giám sát an toàn vĩ mô. Theo đó, phải kết hợp giám sát an toàn toàn bộ hệ thống các tổ chức tín dụng với giám sát an toàn của từng tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

    Tuy nhiên, Quy chế giám sát ngân hàng đối với các TCTD thông qua Quyết định số 398/1999/QĐ-NHNN3 ngày 9/11/1999 của Thống đốc NHNN (Quy chế 398) thiếu hụt toàn bộ các quy định pháp lý khung về quy trình giám sát an toàn vi mô, giám sát an toàn vĩ mô và các vấn đề về phương pháp giám sát, công cụ giám sát phù hợp và hạ tầng hệ thống công nghệ thông tin để cụ thể hóa các nội dung tại Luật NHNN 2010, Nghị định 26/2014/NĐ-CP, Quyết định số 35/2014/QĐ-TTg và các văn bản pháp luật khác.

    Xuất phát từ thực tế trên, nhu cầu xây dựng, hoàn thiện quy trình thủ tục giám sát ngân hàng và ban hành Thông tư mới quy định về trình tự, thủ tục giám sát ngân hàng nhằm nâng cao chất lượng hoạt động giám sát an toàn hệ thống cũng như đáp ứng nhu cầu xây dựng cơ sở pháp lý hoàn chỉnh cho hoạt động giám sát ngân hàng là một yêu cầu hết sức cấp thiết.

    3. Kết quả nghiên cứu, hoàn thiện quy trình, thủ tục giám sát ngân hàng trong thời gian qua

    Qua thực tiễn thanh tra, giám sát và hỗ trợ của các tổ chức quốc tế, quy trình, thủ tục giám sát ngân hàng của NHNN nói chung và CQTTGSNH nói riêng được thực hiện theo một quy trình với bốn bước như sau: Thu thập thông tin; Rà soát thông tin ban đầu; Phân tích, đánh giá; Kết luận, khuyến nghị. Cụ thể:

    Bước 1: Thu thập thông tin

    Nguồn thông tin CQTTGSNH thu thập phục vụ cho hoạt động giám sát gồm: báo cáo của các TCTD theo quy định của NHNN; tiếp xúc trực tiếp với đối tượng giám sát; thông tin nội bộ CQTTGSNH; thông tin từ đơn vị khác thuộc NHNN; thông tin từ các nguồn khác ngoài NHNN. Tuy nhiên, Vụ Giám sát an toàn hệ thống ngân hàng là đơn vị thực hiện chức năng giám sát ngân hàng vẫn chủ yếu thu thập thông tin từ báo cáo của các TCTD. Nguồn thông tin từ các đơn vị khác, thậm chí từ chính nội bộ CQTTGSNH còn ít do cơ chế phối hợp trao đổi thông tin giữa các đơn vị chưa thực sự hiệu quả và đi vào chiều sâu, thông tin khai thác từ nguồn này vẫn hạn chế và chưa phục vụ nhiều cho hoạt động giám sát ngân hàng. Mặc dù CQTTGSNH đã xây dựng kho dữ liệu chung song chỉ mang tính hình thức, các thông tin không được các đơn vị trong cơ quan cập nhật thường xuyên lên kho dữ liệu này. Do đó, cơ chế trao đổi thông tin giữa các đơn vị vẫn chủ yếu dưới hình thức văn bản, mất nhiều thời gian và mang tính chất vụ việc.

    Đối với các thông tin ngoài NHNN khi có nhu cầu, NHNN có văn bản yêu cầu phối hợp và cung cấp thông tin. Việc thu thập thông tin từ Cơ quan giám sát ngân hàng nước ngoài về hoạt động của các chi nhánh NHTM Việt Nam tại nước sở tại vẫn chưa thực hiện do cơ chế trao đổi thông tin giữa CQTTGSNH với Cơ quan giám sát ngân hàng nước ngoài vẫn chưa xây dựng.

    Bước 2: Rà soát thông tin ban đầu

    Giai đoạn này chủ yếu rà soát thông tin thu thập từ các TCTD về tính đầy đủ, chính xác, kịp thời của báo cáo. Qua quá trình rà soát, cán bộ giám sát sẽ có biện pháp xử lý phù hợp.

    Đối với các ngân hàng chưa thực hiện báo cáo hoặc báo cáo chưa đầy đủ theo quy định, CQTTGSNH có văn bản yêu cầu ngân hàng nghiêm túc thực hiện chế độ thông tin báo cáo. Đối với các dữ liệu nhận được, qua quá trình rà soát khi phát hiện số liệu tăng, giảm bất thường, cán bộ giám sát trao đổi ngay với ngân hàng thông qua email, điện thoại hoặc văn bản chính thức. Thông qua phản hồi từ ngân hàng, cán bộ giám sát yêu cầu gửi lại dữ liệu (nếu có sai sót) hoặc hiểu rõ nguyên nhân của sự tăng hoặc giảm bất thường này. Tuy nhiên, rà soát thông tin chủ yếu thực hiện thủ công, chỉ dựa trên sự biến động bất thường của số liệu, đồng thời số lượng cán bộ giám sát còn ít, mỗi cán bộ phải giám sát trên chục ngân hàng gây áp lực công việc lớn nên đôi khi các sai sót, đặc biệt là các gian lận vẫn chưa được cán bộ giám sát phát hiện hoặc phát hiện kịp thời.

    Bước 3: Phân tích, đánh giá

    Sau khi có đầy đủ thông tin, dữ liệu và kiểm tra tính chính xác của thông tin, cán bộ giám sát thực hiện phân tích, đánh giá tình hình hoạt động và việc chấp hành các quy định của pháp luật trong hoạt động ngân hàng của các TCTD. Cán bộ giám sát phân tích, đánh giá việc tuân thủ các quy định của pháp luật, đánh giá hoạt động theo các chỉ tiêu CAMELS và đánh giá rủi ro (chủ yếu là rủi ro tín dụng và rủi ro thanh khoản) của toàn hệ thống, từng nhóm ngân hàng và từng ngân hàng.

    Hoạt động phân tích dữ liệu chủ yếu được thực hiện thủ công, chưa sử dụng một phần mềm hay mô hình phân tích mà mang tính chất mô tả số liệu. Hơn nữa, nguồn thông tin chính là từ báo cáo của các ngân hàng, thông tin thị trường chưa được sử dụng nhiều trong quá trình phân tích, do đó kết quả phân tích, đánh giá chưa thật sự sâu sắc.

    Bước 4: Kết luận, khuyến nghị

    Kết thúc của quá trình giám sát từ xa, cán bộ giám sát đưa ra kết luận về hoạt động và việc tuân thủ các quy định pháp luật của các TCTD; phát hiện và cảnh báo những vấn đề phục vụ cho hoạt động thanh tra tại chỗ; khuyến nghị, yêu cầu TCTD có hành động điều chỉnh đối với vấn đề quan ngại, đồng thời có thể đưa ra những khuyến nghị về chính sách gửi Vụ Chính sách an toàn hoạt động ngân hàng và các đơn vị liên quan khác để sửa đổi, bổ sung.

    Trên cơ sở quy trình 04 bước như trên cũng như căn cứ vào các quy định của pháp luật hiện hành về nội dung giám sát ngân hàng, hình thức giám sát ngân hàng, thực tiễn hoạt động giám sát ngân hàng và kinh nghiệm quốc tế trong vấn đề này, trong thời gian qua, CQTTGSNH đã tiến hành nghiên cứu, hoàn thiện quy trình thủ tục, giám sát ngân hàng và cụ thể hóa thành 01 văn bản quy phạm pháp luật trình Thống đốc NHNN ban hành (Thông tư số 08/2017/TT-NHNN ngày 01/8/2017 quy định về trình tự, thủ tục giám sát ngân hàng).

    Thông tư gồm 04 Chương 25 Điều với bố cục như sau:

    - Chương I: Quy định chung (gồm 05 Điều). Trong đó quy định về Phạm vi điều chỉnh; Đối tượng áp dụng; Giải thích từ ngữ; Nguyên tắc giám sát ngân hàng; Nội dung, trình tự, thủ tục giám sát ngân hàng.

    - Chương II: Quy định cụ thể về trình tự, thủ tục giám sát ngân hàng (gồm 6 Mục 14 Điều). Theo đó, Chương II của Thông tư bao gồm các quy định mang tính khung pháp lý và các bước tiến hành giám sát ngân hàng (trong đó, phân tách các nội dung giám sát an toàn vi mô và giám sát an toàn vĩ mô), như: Thu thập thông tin đầu vào (Thu thập, tổng hợp, xử lý và lưu trữ thông tin, dữ liệu, tài liệu); Phân tích, đánh giá về đối tượng giám sát ngân hàng theo 2 hình thức bao gồm giám sát an toàn vi mô và giám sát an toàn vĩ mô; Tiếp xúc đối tượng giám sát ngân hàng; Giám sát sau thanh tra và Đề xuất các hành động can thiệp, chỉnh sửa bao gồm các biện pháp xử lý trong giám sát ngân hàng.

    - Chương III: Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân có liên quan trong hoạt động giám sát ngân hàng (gồm 04 Điều). Trong đó quy định rõ trách nhiệm của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng, NHNN chi nhánh, đơn vị khác có liên quan thuộc NHNN, đối tượng giám sát ngân hàng.

    - Chương IV: Điều khoản thi hành (gồm 02 Điều) quy định về hiệu lực và trách nhiệm thi hành.

    Điểm đáng chú ý của Thông tư 08 là bên cạnh phương pháp giám sát tuân thủ, Thông tư đã có các quy định khung về giám sát rủi ro để có thể từng bước tiếp cận với thông lệ quốc tế tốt nhất về giám sát ngân hàng, tạo điều kiện cho đơn vị thực hiện giám sát ngân hàng có thể kết hợp giữa giám sát tuân thủ với giám sát rủi ro. Bên cạnh đó, Thông tư 08 cũng quy định một số nội dung sẽ được hướng dẫn tại Sổ tay giám sát ngân hàng do Thống đốc NHNN quyết định ban hành. Sổ tay giám sát ngân hàng là tài liệu hướng dẫn chi tiết về mặt kỹ thuật cho các cán bộ giám sát ngân hàng như phương pháp, mô hình, công cụ trong giám sát an toàn vi mô, giám sát an toàn vĩ mô; đồng thời là cơ sở để các bộ giám sát có một quy tắc áp dụng chung thống nhất.

    4. Kiến nghị về việc tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện quy trình, thủ tục giám sát ngân hàng

    Việc ban hành Thông tư 08 và Sổ tay giám sát ngân hàng là một bước tiến lớn trong việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý trong hoạt động giám sát ngân hàng. Tuy nhiên, cần nhìn nhận vẫn còn nhiều điểm trong khuôn khổ pháp lý và các quy định vẫn chưa phù hợp và không theo kịp với các chuẩn mực quốc tế, nhất là trong bối cảnh kinh tế Việt Nam ngày càng được đa dạng hóa và hội nhập sâu hơn vào hệ thống kinh tế quốc tế đòi hỏi phải có những thay đổi, cải tiến trong khuôn khổ pháp lý cho thanh tra, giám sát để đảm bảo quản lý và giảm thiểu rủi ro trong hoạt động của hệ thống các TCTD. Một số kiến nghị, đề xuất liên quan đến các giải pháp hoàn thiện quy trình, thủ tục giám sát ngân hàng trong thời gian tới như sau:

    - Hoàn thiện cơ sở pháp lý về giám sát của CQTTGSNH đối với các ngân hàng thương mại ở Việt Nam, trong đó tập trung nghiên cứu, xây dựng, trình cấp có thẩm quyền ban hành: Thông tư quy định Quy trình thanh tra về chuyên ngành ngân hàng; Thông tư quy định Quy trình giám sát rủi ro tài chính đối với NHTM riêng lẻ; Thông tư quy định Quy trình đánh giá các NHTM theo tiêu chuẩn CAMELS đối với NHTM riêng lẻ; Thông tư quy định Quy trình đánh giá mức độ rủi ro, năng lực quản lý rủi ro, tình hình tài chính và hoạt động của NHTM…

    Bên cạnh đó, cần ban hành và thường xuyên cập nhật các sổ tay thanh tra và sổ tay giám sát thành cẩm nang thanh tra để hướng dẫn Thanh tra viên, cán bộ, công chức thanh tra có thể thanh tra, giám sát được các nghiệp vụ ngân hàng.

    - Hoàn thiện cơ sở hạ tầng thông tin hỗ trợ hoạt động giám sát của Cơ quan Thanh tra giám sát ngân hàng đối với các TCTD: Song song với việc hoàn thiện khuôn khổ thể chế, cần nâng cấp hạ tầng cơ sở công nghệ để nâng cao chất lượng hoạt động thanh tra, giám sát theo hướng tiếp cận trình độ của khu vực và quốc tế; trong đó xây dựng hạ tầng công nghệ thông tin đồng bộ và tiên tiến để phục vụ cho hiện đại hóa công nghệ thanh tra, giám sát ngân hàng, bao gồm phần cứng, phần mềm ứng dụng và cán bộ công nghệ thông tin. Đây là cơ sở và nền tảng cho việc áp dụng các công cụ định lượng trong hoạt động giám sát ngân hàng.

    - Xây dựng và đào tạo cán bộ, công chức giám sát ngân hàng chuyên sâu: Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức giám sát là giải pháp mang tính nền tảng cho việc nâng cao hiệu quả của công tác giám sát các TCTD. Nó được thực hiện thông qua công tác cán bộ, công chức như tuyển dụng, sắp xếp cán bộ, công chức, chính sách đãi ngộ và các biện pháp khuyến khích khác, trong đó đặc biệt coi trọng đào tạo các kiến thức, kỹ năng về nghiệp vụ, phương pháp giám sát ngân hàng mới theo thông lệ và chuẩn mực quốc tế.

    - Tăng cường trao đổi thông tin giữa CQTTGSNH với các cơ quan giám sát tài chính trong và ngoài nước, trong đó tăng cường hợp tác quốc tế song phương, đa phương về giám sát ngân hàng; xây dựng cơ chế trao đổi thông tin giám sát thị trường tài chính trực tiếp giữa NHNN và Bộ Tài chính; giữa CQTTGSNH và cơ quan Thanh tra, giám sát tài chính; tăng cường sự hiểu biết, trao đổi kinh nghiệm và đối thoại chính sách giữa Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng với các cơ quan giám sát tài chính trong nước thông qua hình thức tổ chức các diễn đàn, hội thảo, hội nghị chuyên đề;…

    Tài liệu tham khảo:

    1. Carl-Johan Lindgren và cộng sự (1996): Bank soundness and macroeconomic policy, IMF.

    2. Nguyễn Thị Minh Huệ (2011): Hoạt động giám sát của NHNN Việt Nam đối với NHTM, Viện Đào tạo Sau Đại học, Hà Nội, Đại học Kinh tế Quốc dân. Luận án Tiến sỹ.

    3. Nguyễn Phi Lân (2015): Công tác giám sát ngân hàng trong đảm bảo an ninh tiền tệ và an toàn hệ thống ngân hàng, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Quốc gia, KX.01.15/11-15, Bộ Khoa học và Công nghệ.

    3. Paul J.van Sluijs (2006): Evaluating the effectiveness of financial supervison, WB.

    4. Phạm Tiên Phong (2015): Xây dựng khuôn khổ an toàn vĩ mô cho hệ thống tài chính Việt Nam, Đề tài cấp ngành, Mã số: DTNH.07/2014, Viện Chiến lược Ngân hàng, NHNN.

    5. S.Rose, P. (2004): Quản trị ngân hàng thương mại, Hà Nội, Nhà xuất bản tài chính.

    *1 Phó Chánh Thanh tra, giám sát ngân hàng – Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng, NHNN