Có máy hệ thống con trong hệ thống thông tin marketing

Hệ thống thông tin marketing được thiết lập nhằm phục vụ nhà quản trị. Quản trị được cho là một công việc vừa có tính khoa học, vừa có tính nghệ thuật. Tính nghệ thuật thể hiện ở chỗ nhà quản trị có sự khéo léo, sáng tạo trong xử lý tình huống. Tính khoa học ở chỗ, các quyết định của nhà quản trị có thể được hỗ trợ bởi các kết quả nghiên cứu về khoa học quản trị và hệ thống thông tin marketing [MIS].

Bài này nói về hệ thống thông tin được triển khai để hỗ trợ nhà quản trị trong xử lý cộng việc, đặc biệt là hiểu biết và ra quyết định marketing.

MIS được thiết lập để phục vụ tổ chức, cụ thể là cung cấp thông tin cho nhà quản trị

Định kỳ, nhà quản trị cần quyết định như phát triển một sản phẩm mới. Trong mỗi quyết định như vậy, khi triển khai cần ra các quyết định cụ thể hơn như: tính năng sản phẩm, mẫu mã sản phẩm, dịch vụ hỗ trợ… Nhà quản trị cần các thông tin hỗ trợ để thực hiện vai trò của mình.

MIS ra đời nhằm phục vụ nhu cầu đó.  Vì vậy để thiết kế MIS tốt, cần xác định rõ nhu cầu thông tin của nhà quản trị. Để xác định cần biết:

Những kiểu quyết định nào NQT thường xuyên thông qua

  • Thông tin nào cần có để ra quyết định
  • NQT thường nhận được thông tin nào
  • NQT yêu cầu định kỳ nghiên cứu vấn đề gì
  • Thông tin nào NQT muốn nhưng vẫn chưa có
  • NQT muốn có/đã có những thông tin nào định kỳ

Dựa trên nhu cầu đó của NQT, MIS sẽ tìm kiếm, phân loại, phân tích, đánh giá và phân phối lại cho NQT

Xem thêm tại đây: Marketing căn bản

Hệ thống thông tin marketing là một hệ thống bao gồm con người, thiết bị, thể thức nhằm thu thập, phân loại, phân tích, đánh giá và phân phối thông tin cần thiết, kịp thời, chính xác cho người ra quyết định marketing. [Kotler, P]

Theo mô hình trên, MIS lấy thông tin từ 3 nguồn chính

Nguồn thông tin nội bộ

Nguồn thông tin nội bộ của doanh nghiệp có thể gồm: thông tin đặt hàng, thanh toán, tồn kho; thông tin bán hàng hoặc cơ sở dữ liệu. Đây là nguồn thông tin có giá khá rẻ.

Hiện một số doanh nghiệp có nguồn thông tin nội bộ rất lớn và đây cũng là lợi thế lớn trong kinh doanh hiện nay. Những doanh nghiệp có lượng user lớn, sử dụng thường xuyên [như các mạng xã hội, máy tìm kiếm, trang thương mại điện tử…] có dữ liệu vô cùng lớn. Một việc quan trọng, và cũng thách thức với những doanh nghiệp này là khả năng phân tích dữ liệu để cho ra kết quả phục vụ kinh doanh. Công việc này là data science.

Chẳng hạn mô hình kinh doanh của Facebook có lợi thế lớn ở nguồn thông tin nội bộ khổng lồ. Một mặt Facebook xây dựng/nuôi dưỡng bổ sung thêm thông tin bằng cách phục vụ người dùng và phát triển người dùng mới. Mặt khác Facebook khai thác dữ liệu từ nguồn người dùng đó.

Nguồn thông tin bên ngoài hay thông tin tình báo

Thông tin bên ngoài là thông tin không có sẵn, doanh nghiệp tổ chức thu thập. DN có thể thu thập bằng nhiều cách, như:

  • Tổ chức cho nhân viên KD tìm hiểu về thị trường và báo cáo
  • Tham khảo từ các trung gian [nhà phân phối, đại lý…]
  • Thành lập bộ phận chăm sóc khách hàng
  • Tìm hiểu các báo cáo của chính quyền, các hiệp hội ngành nghề
  • Mua thông tin bên ngoài

Nghiên cứu marketing

Nghiên cứu marketing là hệ thống thiết kế, thu thập, phân tích dữ liệu và báo cáo về vấn đề marketing mà doanh nghiệp đang gặp phải.

Doanh nghiệp nghiên cứu trong nhiều tình huống, như: tìm hiểu động cơ khách hàng, hành vi mua, sự thỏa mãn của khách hàng; quy mô thị trường, thị phần; hiệu quả của hoạt động định giá, sản phẩm, phân phối, chiêu thị.

Như nói ở trên, nghiên cứu Marketing được thiết kế và triển khai một cách có hệ thống, có cơ sở. Vì vậy, có tính thuyết phục cao. Doanh nghiệp cũng có thể có các kết quả đó không thông qua nghiên cứu. Như bằng kinh nghiệm chẳng hạn.

Phân tích thông tin

Sau khi lấy thông tin từ các nguồn trên, DN phân tích để có được các hiểu biết hữu ích cung cấp cho nhà quản trị. Đây cũng là một bước quan trọng.

Một số ví dụ về sự phân tích thông tin.

Thuật toán Facebook: sử dụng thông tin về hành vi của người dùng + thông tin báo cáo [report] để đánh giá các đối tượng [user, fanpage]. Người dùng có hành vi đánh ngờ có thể bị đưa vào diện xem xét [checkpoint].

Thuật toán Google: Google muốn đưa các kết quả tìm kiếm phù hợp nhất đến với người tìm kiếm. Tuy nhiên, có quá nhiều website dùng các thủ thuật không tự nhiên để nâng cao thứ hạng của mình. Thuật toán Google [như Penguin, Panda, Pigeon, Medic…] phân tích, nhằm tìm ra những website không phù hợp đó.

Phân phối thông tin

Thông tin cần được phân phối đúng người, kịp thời, chính xác.

Trong mô hình trên, người quản trị không phải chỉ làm một người. Trong mỗi tổ chức có nhiều cấp quản trị, ở mỗi cấp lại có nhiều nhà quản trị khác nhau. Thông tin MIS cung cấp cho NQT cần đúng người.

Cụ thể: thông tin về thị trường, thị phần thì không cần phân phối cho giám đốc nhân sự. Ngược lại hồ sơ bằng cấp, quá trình làm việc, lương bổng thì không cần cung cấp cho giám đốc marketing.

Nếu bạn có ý kiến gì, hoặc thắc mắc gì, xin vui lòng comment bên dưới.

CHƯƠNG II

HỆ THỐNG THÔNG TIN VÀ NGHIÊN CỨU MARKETINGMỤC TIÊUSau khi học xong chương này, sinh viên cần nắm được: •Khái niệm nghiên cứu Marketingvà hệ thống thông tin Marketing •Nội dung 4 hệ thống con trong hệ thống thông tin Marketing •Các giai đoạn, các nội dung nghiên cứu Marketing •Các phương pháp nghiên cứu Marketing •Các nguồn thơng tin khác nhau để nghiên cứu Marketing.2.1. HỆ THỐNG THƠNG TIN MARKETING 2.1.1. Khái niệmHệ thống thơng tin Marketing là một hệ thống tương tác giữa con người, thiết bị và các thủ tục để thu thập, xử lý, lưu trữ và phân phối thông tin cần thiết một cách chính xác,kịp thời cho các nhà ra quyết định Marketing.Như vậy, nhiệm vụ cơ bản của hệ thống thông tin Marketing là thường xuyên thu thập, xử lý, lưu trữ và cung cấp thông tin cần thiết cho các nhà quản trị Marketing.Để thực hiện các chức năng quản trị như phân tích, hoạch định, thực hiện và kiểm tra các hoạt động Marketing, các nhà quản trị Marketing cần đến các thông tin về môi trườngvĩ mơ và vi mơ của doanh nghiệp. Vai trò của hệ thống thông tin Marketing là đánh giá nhu cầu thông tin của các nhà quản trị Marketing, phát triển các thơng tin đó, và phân phối kịpthời các thơng tin đó cho các nhà quản trị Marketing.Do máy tính cá nhân ngày càng được sử dụng rộng rãi và dễ dàng với chi phí thấp và khả năng nối mạng các máy tính ở các địa điểm khác nhau, hệ thống thông tin Marketingmang lại những tiềm năng to lớn hơn cho các nhà quản trị Marketing.Một hệ thống thông tin Marketing trên cơ sở ứng dụng mạng máy tính có thể cung cấp nhanh chóng các thơng tin Marketing cần thiết với chi phí thấp. Giá trị và sự thànhcông của Hệ thống thông tin Marketing phụ thuộc vào ba yếu tố: •Bản chất và chất lượng của các số liệu sẵn có •Độ chính xác và tính hiện thực của các mơ hình và kỹ thuật phân tích các số liệu. •Mối quan hệ cơng tác giữa nhà khai thác hệ thống thông tin và các nhà quản lý Marketing sử dụng thông tin.Giáo trình Marketingcăn bảnTrc kia, các doanh nghiệp chỉ quan tâm chủ yếu đến quản trị tiền bạc, nguyên vật liệu, trang thiết bị và con người, vì đây được xem là các nguồn lực quan trọng của doanhnghiệp. Ngày nay, người ta nhận thấy tầm quan trọng ngày càng lớn của nguồn lực thứ 5 là thông tin. Đây là một nguyên nhân làm xuất hiện nhu cầu quản trị thông tin trong doanhnghiệp.Hoạt động Marketing trong doanh nghiệp ngày càng phức tạp và đa dạng, đòi hỏi phải có đầy đủ và kịp thời các thông tin cần thiết. Việc quản trị các hoạt động Marketingphải dựa trên các thông tin về thị trường, về mơi trường bên trong, bên ngồi doanh nghiệp. Hầu như mỗi bước trong quá trình quản trị Marketing như phân tích, lập kế hoạch, thựchiện và kiểm tra hiệu quả của các hoạt động Marketing thì nhà quản trị Marketingđều cần thông tin. Họ cần thông tin về nhu cầu, thị hiếu của khách hàng, về hoạt động của các đốithủ cạnh tranh, về các yếu tố của một trường kinh doanh… Các thông tin này cần được lưu trữ, cập nhật thường xuyên, được chia sẻ giữa các nhà quản lý, được truy nhập dễ dàng.Đây cũng là lý do để cần phải tổ chức thông tin Marketing thành một hệ thống.Có thể tóm tắt những yếu tố dẫn tới sự cần thiết có hệ thống thơng tin Marketing đối với doanh nghiệp như sau:• Các nhà quản lý cấp cao của doanh nghiệp ngày càng có ít thời gian để ra các quyếtđịnh Marketing. Lý do là môi trường cạnh tranh buộc doanh nghiệp thay đổi các sản phẩm hiện tại và đưa ra các sản phẩm mới ngày càng nhanh hơn. Do vậy, họcần lấy thơng tin nhanh hơn, nhiều hơn.• Các hoạt động Marketingngày càng phức tạp hơn, phạm vi và địa bàn ngày càngrộng hơn do cạnh tranh ngày càng mạnh cùng với xu hướng tồn cầu hố. Do vậy, thơng tin Marketingngày càng đa dạng, đối tượng sử dụng ngày càng nhiều và địabàn rộng hơn.• Mong đợi của khách hàng ngày càng cao, doanh nghiệp ngày càng phải quan tâmnhiều hơn đến khách hàng. Do vậy, doanh nghiệp ngày càng cần nhiều các nghiên cứu Marketing.• Xu hướng hội tụ giữa tin học và viễn thông tạo ra sự dễ dàng cho việc thiết lập cáccơ sở dữ liệu lớn được nối mạng. Một hệ thống thông tin được thiết kế và tổ chức tốt có thể cung cấp các nguồn thôngtin Marketing đầy đủ, tiện lợi với chi phí thấp cho các nhà quản trị Marketing ra quyết định. Năng lực lưu trữ và truy cập thông tin của hệ thống cho phép xử lý và lưu trữ một số lượnglớn các thơng tin. Trên cơ sở đó, các nhà quản lý có thể kiểm tra thường xuyên kết quả tiêu thụ sản phẩm, tình hình biến động ca th trngGiáo trình Marketingcăn bản

Video liên quan

Chủ Đề