Cách xác định khung hình phạt

Định tội trong trường hợp một hành vi thỏa mãn nhiều cấu thành tội phạm

Cách xác định khung hình phạt
Cách xác định khung hình phạt
Cách xác định khung hình phạt
Cách xác định khung hình phạt
Cách xác định khung hình phạt
Cách xác định khung hình phạt
Cách xác định khung hình phạt

PHAN ANH TUẤN - Giảng viên khoa Luật Hình sự ĐH Luật TP.HCM
Khi nghiên cứu các quy định của Bộ luật hình sự (BLHS) và thực tiễn xét xử chúng ta thường hay gặp các trường hợp một hành vi phạm tội thỏa mãn dấu hiệu của nhiều cấu thành tội phạm (CTTP).

Vấn đề đặt ra là định tội danh và xác định khung hình phạt áp dụng trong các trường hợp này như thế nào? Về vấn đề này, hiện nay về mặt lý luận cũng như thực tiễn xét xử ở nước ta chưa được giải quyết một cách thỏa đáng. Chính vì vậy, việc giải quyết vấn đề này về mặt lý luận có ý nghĩa quan trọng đối với thực tiễn, giúp các cơ quan bảo vệ pháp luật xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm.
Căn cứ vào mối quan hệ giữa các CTTP mà hành vi phạm tội thỏa mãn dấu hiệu, chúng ta có thể chia các hành vi phạm tội thành 2 nhóm như sau:
- Nhóm thứ nhất, các CTTP có mối quan hệ giữa cấu thành chung và cấu thành riêng.
- Nhóm thứ hai, các CTTP không có mối quan hệ giữa cấu thành chung và cấu thành riêng.
I. Trường hợp các CTTP có mối quan hệ giữa cấu thành chung và cấu thành riêng:
Cấu thành chung là CTTP phản ánh những dấu hiệu có tính chung của hành vi phạm tội và cấu thành riêng là CTTP phản ánh những trường hợp đặc thù của hành vi phạm tội. Trong trường hợp này, hành vi phạm tội thỏa mãn dấu hiệu của cấu thành riêng thì cũng đồng thời thỏa mãn dấu hiệu của cấu thành chung. Chẳng hạn: cấu thành tội vô ý làm chết người (Điều 98) là cấu thành chung so với cấu thành của các tội: vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính (Điều 99 BLHS), vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ (Điều 202 BLHS), vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường sắt (Điều 208 BLHS), vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường thủy (Điều 212 BLHS); hoặc cấu thành tội giết người (Điều 93 BLHS) là cấu thành chung so với cấu thành các tội: giết con mới đẻ (Điều 94 BLHS), giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 95 BLHS), giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều 96 BLHS), v.v
Cơ sở lý luận để định tội danh trong các trường hợp này là lý luận của triết học Mác Lênin về mối quan hệ của cặp phạm trù cái chung và cái riêng. Theo đó thì cái chung là một bộ phận của cái riêng, còn cái riêng không gia nhập hết vào cái chung1. Do đó, các cấu thành riêng bao giờ cũng chứa đựng tất cả các dấu hiệu của cấu thành chung và ngoài ra nó còn chứa đựng các dấu hiệu khác chỉ có ở nó. Chính vì vậy, trong trường hợp này, chúng ta xác định tội danh của hành vi phạm tội theo tội có cấu thành riêng.
II. Trường hợp các CTTP không có mối quan hệ giữa cấu thành chung và cấu thành riêng:
1. Để giải quyết vấn đề này, chúng ta có thể nêu một vài ví dụ sau đây:
- Ví dụ 1: Hành vi sử dụng vũ khí để thực hiện tội phạm thì theo hướng dẫn tại Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày 7/1/1995 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ nội vụ thì đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự (TNHS) về 2 tội: Tội sử dụng vũ khí trái phép quân dụng và tội phạm đã thực hiện theo điều luật tương ứng của BLHS. Nếu tội phạm đã thực hiện mà điều luật có quy định sử dụng vũ khí là tình tiết định khung hình phạt, thì phải truy cứu TNHS về khoản tương ứng của điều luật.
- Ví dụ 2: Theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 01-89/HĐTP ngày 19/4/1989 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì hành vi dùng vũ lực để tẩu thoát sau khi thực hiện các tội trộm cắp, cướp giật thì xét xử theo các tội tương ứng với tình tiết định khung tăng nặng là hành hung để tẩu thoát. Nếu việc dùng vũ lực dẫn đến hậu quả là chết người thì kẻ phạm tội bị kết án thêm về tội giết người. Nếu hậu quả của việc dùng vũ lực là gây thương tích dẫn đến chết người thì bị kết án thêm về tội cố ý gây thương tích dẫn đến chết người.
- Ví dụ 3: Hành vi cố ý gây thương tích cho người khác từ 11% trở lên nhằm chiếm đoạt tài sản: đều thỏa mãn dấu hiệu cấu thành tội cố ý gây thương tích và tội cướp tài sản nhưng chỉ bị xét xử về tội cướp tài sản. Tuy nhiên, trong trường hợp giết người để cướp tài sản thì lại xét xử về tội 2 tội: tội giết người (Điều 93 BLHS) và tội cướp tài sản (Điều 133 BLHS).
2. Vấn đề đầu tiên đặt ra là trong trường hợp nào thì xét xử một tội, trường hợp nào xét xử nhiều tội? Cơ sở lý luận để giải thích vấn đề này như thế nào?
Để giải quyết vấn đề này, theo tôi, cần phải xuất phát từ cơ sở triết học Mác Lênin về vấn đề chất lượng của sự vật, hiện tượng. Theo triết học Mác Lênin thì chất là sự tổng hợp các thuộc tính vốn có của sự vật và mỗi sự vật có muôn vàn chất. Tuy nhiên Ở mỗi sự vật chỉ có một chất căn bản, đó là loại chất mà sự tồn tại hay mất đi của nó quy định sự tồn tại hay mất đi của bản thân sự vật2.
Như vậy, một sự vật, hiện tượng chỉ có một chất căn bản và có thể có nhiều chất không căn bản. Và theo đó, trong mối quan hệ giữa chất căn bản và chất không căn bản của sự vật, hiện tượng thì chất căn bản phải mạnh để chi phối và thu hút các chất không căn bản yếu hơn. Chất căn bản của sự vật, hiện tượng không thể thu hút vào sự vật, hiện tượng một chất khác mạnh tương đương hoặc mạnh hơn để trở thành chất không căn bản.
Dựa trên cơ sở đó, nếu xem một tội phạm cụ thể là một chất và tội nào có mức cao nhất của khung hình phạt cao hơn thì tội phạm đó mạnh hơn, chúng ta có thể giải quyết vấn đề định tội đối với trường hợp một hành vi phạm tội thỏa mãn nhiều CTTP như sau:
- Trường hợp thứ nhất: nếu một tội phạm cụ thể mạnh hơn một tội khác thì tội mạnh hơn sẽ thu hút tội yếu hơn và do đó chúng ta chỉ xét xử về một tội: tội mạnh hơn. Trong trường hợp này, tội yếu hơn sẽ bị thu hút thành tình tiết định khung của tội mạnh hơn hoặc tình tiết của vụ án. Chẳng hạn: trong trường hợp hành vi cố ý gây thương tích cho người khác từ 11% trở lên nhằm chiếm đoạt tài sản thì tội cướp tài sản thu hút tội cố ý gây thương tích thành tình tiết định khung tăng nặng của tội cướp tài sản.
(Lưu ý: đây mới chỉ là điều kiện cần khi xét xử về một tội, còn điều kiện đủ đề nghị bạn đọc xem thêm mục II.3).
- Trường hợp thứ hai: nếu một tội cụ thể không đủ mạnh để thu hút một tội khác mạnh tương đương thì sẽ xét xử về nhiều tội. Chẳng hạn: trong trường hợp giết người để cướp tài sản vì tội cướp và tội giết người mạnh tương đương nhau nên không thể thu hút lẫn nhau, do đó chúng ta xét xử về tội 2 tội: tội giết người (Điều 93 BLHS) và tội cướp tài sản (Điều 133 BLHS).
3. Vấn đề thứ hai là khi chúng ta xét xử, có trường hợp xét xử một tội, có trường hợp xét xử nhiều tội thì có đảm bảo mức hình phạt đối với từng trường hợp tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội hay không, có đảm bảo công bằng hay không đối với người phạm tội?
Trong trường hợp chúng ta xét xử về một tội hay nhiều tội thì hành vi phạm tội trên thực tế bao giờ cũng là một chỉnh thể thống nhất được cấu tạo bởi sự liên kết giữa các chất (các tội) trong hành vi phạm tội đó. Chính sự liên kết này giữa các chất (các tội) trong cùng một hành vi phạm tội đã làm cho hành vi phạm tội có tính nguy hiểm cao hơn so với tổng tính nguy hiểm của từng chất (từng tội) độc lập cộng lại với nhau. Về mặt triết học, đây chính là sự thể hiện của quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại. Chúng ta có thể thể hiện điều này bằng công thức sau:
a = b + c + D
và do đó a > b + c
Trong đó:
a: Tính nguy hiểm của hành vi phạm tội
b: Tính nguy hiểm của tội 1
c: Tính nguy hiểm của tội 2
D: Độ tăng tính nguy hiểm do các chất (các tội) liên kết với nhau trong hành vi phạm tội.
Trong công thức này, D có độ lớn như thế nào phụ thuộc vào sự liên kết giữa các chất (các tội) trong hành vi phạm tội. Sự liên kết càng chặt chẽ thì độ tăng tính nguy hiểm của D càng cao.
Và vì hình phạt là thước đo tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội cho nên công thức a = b + c + D có thể viết lại dưới dạng hình phạt như sau:
A = B + C + D
Do đó: A > B + C
Trong đó:
A: Mức hình phạt của hành vi phạm tội
B: Mức hình phạt của cấu thành cơ bản tội thứ nhất
C: Mức hình phạt của cấu thành cơ bản tội thứ hai
D: Độ tăng mức hình phạt do sự liên kết của các tội với nhau trong cùng hành vi phạm tội.
Trong mọi trường hợp độ tăng mức hình phạt D được chuyển hóa vào trong các tình tiết định khung tăng nặng. Cụ thể là:
a. Trong trường hợp xét xử một tội: nếu tội yếu hơn bị thu hút thành tình tiết định khung hình phạt thì độ tăng mức hình phạt (D) thể hiện ở mức hình phạt nghiêm khắc hơn của cấu thành tăng nặng của tội thu hút so với hình phạt của tổng 2 cấu thành cơ bản của tội thu hút và tội bị thu hút. Điều này được thể hiện bằng công thức sau:
A = B + C + D = B1 (Giả sử tội thứ hai bị thu hút vào tội thứ nhất)
=> D = B1 (B + C)
Do đó: A = B1 > B + C (Công thức )
Trong đó:
A: Mức hình phạt của hành vi phạm tội
B1: Mức hình phạt của cấu thành tăng nặng tội của tội thu hút.
B: Mức hình phạt của cấu thành cơ bản của tội thu hút.
C: Mức hình phạt của cấu thành cơ bản của tội bị thu hút.
D: Độ tăng mức hình phạt do sự liên kết của tội thu hút và tội bị thu hút trong cùng hành vi phạm tội.
Ví dụ: Hành vi cố ý gây thương tích cho người khác từ 11% đến 30% nhằm chiếm đoạt tài sản thì hành vi này thỏa mãn dấu hiệu của cấu thành tội cố ý gây thương tích (Điều 104 BLHS) và tội cướp tài sản (Điều 133 BLHS) nhưng chúng ta chỉ xét xử 1 tội là tội cướp tài sản theo khoản 2 Điều 133 BLHS với tình tiết định khung là gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỉ lệ thương tật từ 11% đến 30%. Trong trường hợp này tội cố ý gây thương tích bị thu hút thành tình tiết định khung của tội cướp tài sản. Và ta có:
A = B1 = mức hình phạt của khoản 2 Điều 133 BLHS (Cấu thành tăng nặng của tội cướp tài sản) là phạt tù từ 7 năm đến 15 năm.
B = Mức hình phạt của khoản 1 Điều 133 BLHS (Cấu thành cơ bản tội cướp tài sản) là phạt tù từ 3 năm đến 10 năm.
C = Mức hình phạt K1 Điều 104 BLHS (Cấu thành cơ bản tội cố ý gây thương tích) là phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm.
Có nghĩa là:
3 năm £ B £ 10 năm
6 tháng £ C £ 3 năm
3 năm 6 tháng £ B + C £ 13 năm
Và do đó: A = B1 > B + C
Từ công thức (*) A = B1 > B + C này có thể rút ra kết luận: trong trường hợp cấu thànnh tăng nặng của tội mạnh hơn có mức hình phạt được luật quy định không đảm bảo công thức (*) nói trên thì sẽ không thu hút tội yếu vào tội mạnh hơn để xét xử một tội mà xét xử về hai tội. Ta có thể lấy ví dụ sau đây để chứng minh kết luận trên.
Ví dụ: Hành vi sử dụng vũ khí quân dụng để cướp tài sản. Giả sử trong trường hợp này chúng ta chỉ xét xử một tội là tội cướp tài sản thì:
A = B1: Mức hình phạt của K2 Điều 133 BLHS (tình tiết định khung là sử dụng vũ khí) là phạt tù từ 7 năm đến 15 năm.
B: Mức hình phạt của K1 Điều 133 BLHS (cấu thành cơ bản của tội cướp tài sản) là phạt tù từ 3 năm đến 10 năm.
C: Mức hình phạt của K1 Điều 230 BLHS (cấu thành cơ bản của tội sử dụng vũ khí trái phép) là phạt tù từ 2 năm đến 7 năm.
=> 5 năm £ B + C £ 17 năm
Do đó, không đảm bảo công thức: A = B1 > B + C (vì 17 năm > 15 năm) nên chúng ta phải xét xử về 2 tội: tội cướp tài sản và tội sử dụng vũ khí trái phép chứ không thu hút tội sử dụng vũ khí trái phép vào tội cướp tài sản. Điều này phù hợp với hướng dẫn tại Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày 7/1/1995 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ nội vụ là hành vi này sẽ bị truy cứu TNHS về 2 tội: Tội sử dụng vũ khí trái phép quân dụng và tội cướp tài sản.
Từ các lập luận trên, có thể rút ra kết luận là trong trường hợp một hành vi thỏa mãn dấu hiệu của nhiều CTTP thì chỉ xét xử một tội khi thỏa mãn cùng một lúc 2 điều kiện cần và đủ sau:
- Điều kiện cần: Có một tội mạnh hơn thu hút tội nhẹ hơn.
- Điều kiện đủ: trường hợp tội nhẹ hơn bị thu hút thành tình tiết định khung thì phải đảm bảo công thức (*).
Còn ngược lại, trong trường hợp không thỏa mãn các điều kiện trên thì chúng ta xét xử về nhiều tội.
b. Trong trường hợp xét xử nhiều tội: thì độ tăng mức hình phạt (D) được chuyển hóa thành các tình tiết định khung tăng nặng ở các tội: có trường hợp độ tăng mức hình phạt (D) được chuyển hóa thành một tình tiết định khung tăng nặng, có trường hợp nó được chuyển hóa thành nhiều tình tiết định khung tăng nặng.
Trong trường hợp này thì công thức: A = B + C + D được biến đổi dưới các dạng sau:
* Nếu D chỉ chuyển hóa thành một tình tiết định khung hình phạt (ở tội thứ nhất chẳng hạn) thì:
A = B + C + D = B1 + C
Do đó trong trường hợp này: D = B1 B
Trong đó B1 là mức hình phạt của cấu thành tăng nặng của tội thứ nhất.
Ví dụ: Hành vi sử dụng vũ khí quân dụng để cướp tài sản sẽ bị xét xử về 2 tội: tội cướp tài sản với tình tiết định khung tăng nặng là Sử dụng vũ khí (điểm đ. K2 Điều 133 BLHS) và tội sử dụng vũ khí trái phép theo K1 Điều 230 BLHS.
Trong trường hợp này D chính là độ tăng mức hình phạt do tình tiết định khung sử dụng vũ khí được quy định tại K2 Điều 133 BLHS tạo ra so với K1 Điều 133 BLHS (cấu thành cơ bản của tội cướp tài sản).
* Nếu D được chuyển hóa thành hai tình tiết định khung hình phạt (ở cả tội thứ nhất và cả tội thứ hai) thì:
A = B + C + D = B1 + C1
Do đó trong trường hợp này: D = (B1 B) + (C1 C)
Trong đó:
B1 là mức hình phạt của cấu thành tăng nặng của tội thứ nhất.
C1 là mức hình phạt của cấu thành tăng nặng của tội thứ hai.
Ví dụ: Hành vi giết nhiều người để cướp tài sản, thì sẽ bị xét xử về 2 tội: tội giết người ở K1 Điều 93 BLHS (với 2 tình tiết định khung tăng nặng là giết nhiều người và để thực hiện một tội phạm khác) và tội cướp tài sản với tình tiết định khung tăng nặng được quy định tại điểm c khoản 4 Điều 133 BLHS Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Trong trường hợp này, độ tăng mức hình phạt (D) được chuyển hóa thành 2 tình tiết định khung tăng nặng là để thực hiện một tội phạm khác ở tội giết người và gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng ở tội cướp tài sản.
Như vậy, dù xét xử một tội hay nhiều tội thì mức hình phạt đối với hành vi phạm tội (A) vẫn được bảo toàn là A = B + C + D, chỉ có điều nó được chuyển hóa thành các công thức khác nhau mà thôi:
A = B + C + D = B1 (trong trường hợp xét xử một tội);
A = B + C + D = B1 + C (trong trường hợp xét xử nhiều tội mà D chuyển hóa thành một tình tiết định khung tăng nặng);
A = B + C + D = B1 + C1 (trong trường hợp xét xử nhiều tội mà D chuyển hóa thành hai tình tiết định khung tăng nặng).
Hay nói cách khác, dù xét xử một hay nhiều tội thì mức hình phạt áp dụng đối với hành vi phạm tội vẫn tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, vẫn đảm bảo sự công bằng đối với người phạm tội.
4. Vấn đề thứ ba được đặt ra là trong trường hợp độ tăng mức hình phạt (D) được chuyển thành các tình tiết định khung thì có phải các tình tiết đó được sử dụng nhiều lần hay không? Chẳng hạn, ở ví dụ trên, tình tiết sử dụng vũ khí quân dụng một mặt được sử dụng là tình tiết định tội của tội sử dụng vũ khí quân dụng trái phép (Điều 230 BLHS), mặt khác lại được sử dụng làm tình tiết định khung tăng nặng của tội cướp tài sản (điểm đ. Khoản 2 Điều 133 BLHS). Vậy tình tiết sử dụng vũ khí được sử dụng nhiều lần dưới các dạng tình tiết (tình tiết định tội, tình tiết định khung) khác nhau có trái với quan điểm một tình tiết không được sử dụng nhiều lần trong Luật hình sự hay không?
Theo tôi, trong trường hợp này tình tiết sử dụng vũ khí được sử dụng làm tình tiết định khung của tội cướp tài sản phản ánh tính nguy hiểm cao hơn của hành vi sử dụng vũ khí trái phép để cướp tài sản so với tổng tính nguy hiểm của các trường hợp sử dụng vũ khí trái phép để cướp tài sản tách rời độc lập, không có liên hệ gì với nhau. Do vậy, tình tiết sử dụng vũ khí trái phép được nhà làm luật quy định thành tình tiết định khung của tội cướp tài sản như vậy là hợp lý. Và từ các phân tích ở trên, tác giả cho rằng một tình tiết có thể được sử dụng nhiều lần đối với nhiều tội khác nhau nhưng không được sử dụng nhiều lần đối với cùng một tội.
5. Từ các lập luận trên có thể rút ra một số kết luận sau:
- Trong trường hợp hành vi phạm tội thỏa mãn dấu hiệu của nhiều CTTP mà giữa những CTTP này lại có mối quan hệ giữa cấu thành chung và cấu thành riêng thì chúng ta định tội danh theo cấu thành riêng.
- Độ tăng tính nguy hiểm (và do đó là độ tăng tính hình phạt) D là khách quan khi các tội liên kết với nhau trong cùng một hành vi phạm tội. D được chuyển hóa vào trong các tình tiết định khung tăng nặng khi xét xử.
- Chúng ta chỉ xét xử một tội khi thỏa mãn cùng một lúc 2 điều kiện cần và đủ sau:
+ Điều kiện cần: có một tội mạnh hơn thu hút một tội nhẹ hơn.
+ Điều kiện đủ: trường hợp tội nhẹ hơn bị thu hút thành tình tiết định khung thì phải đảm bảo công thức (*).
Còn ngược lại, trong trường hợp không thỏa mãn các điều kiện trên thì chúng ta xét xử về nhiều tội.
- Một tình tiết có thể được sử dụng nhiều lần đối với nhiều tội khác nhau nhưng không được sử dụng nhiều lần đối với cùng một tội.
Vấn đề định tội danh và xác định khung hình phạt trong trường hợp hành vi phạm tội thỏa mãn dấu hiệu của nhiều CTTP là một vấn đề phức tạp đang còn tranh luận trong thực tiễn cũng như lý luận khoa học Luật Hình sự. Do đó, quan điểm của tác giả về giải quyết vấn đề này chỉ có ý nghĩa tham khảo bước đầu.


Các bài viết khác: Tư Vấn Luật Hình Sự

  • Xung đột quan điểm trong việc xác định tội danh
  • bàn về định tội danh với một số tội xâm phạm sở hữu
  • Bình luận về tội danh qua một vụ án
  • Chứng cứ luật sư thu thập thường bị xem nhẹ
  • Bị can, bị cáo có quyền yêu cầu giám định?
  • Có được cộng dồn thiệt hại trong án hình sự
  • Rửa tiền, vì sao khó khởi tố?
  • Góp ý sửa đổi Luật Luật sư: Hạn chế miễn thời gian đào tạo nghề
  • Luật sư tham gia tố tụng: Không cần cấp giấy
  • Phương hướng hoàn thiện các quy định của bộ luật tố tụng hình sự về xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
  • Vấn đề định tội trong trường hợp: Lợi dụng chức vụ quyền hạn quy định tại điểm d khoản 2 Điều 139 Bộ luật hình sự Một số vấn đề cần trao đổi.
  • Rút yêu cầu khởi tố: Vẫn cần phải hướng dẫn
  • Tăng quyền luật sư để nâng chất tranh tụng
  • Tranh tụng mới có phiên tòa đúng nghĩa
  • Viện kiểm sát cần chuyển thành viện công tố