Bài thuyết trình về bánh trôi nước

Bánh trôi nước là món bánh cổ truyền của người dân Việt Nam, là thức quà có ý nghĩa đặc biệt thường được sử dụng trong dịp lễ lạt, cúng kiếng. Vào dịp Tết Hàn thực, bánh trôi nước là món chủ đạo, đặc trưng. Mỗi năm cứ đến dịp lễ này, nhà nhà, người người lại đổ xô đi mua bánh trôi, bánh chay về thờ cúng.

Bánh trôi nước được làm từ bột gạo, có vỏ bên ngoài trắng ngần và nhân ngọt bên trong. Khác với chè trôi nước miền Nam, bánh trôi nước miền Bắc có kích thước nhỏ, thường được ăn cùng với nước và có nhân đường phèn. Những miếng bánh trắng ngà, dẻo mịn và thơm mùi nếp cùng vị béo ngậy của tinh dầu chuối.

Theo tài liệu từ quyển Ẩm thực Việt Nam và Thế giới của tiến sĩ Nguyễn Diệu Thảo, món ăn bánh trôi nước trong Tết Hàn thực được lấy cảm hứng từ tích Con Rồng Cháu Tiên của dân tộc Việt Nam. Truyền thuyết kể rằng, vua rồng xứ Lạc Việt là Lạc Long Quân đã kết duyên cùng Âu Cơ là tiên, sinh được bọc trăm trứng chứa trăm người con. Những người con này được cho là hậu duệ của người Việt Nam bây giờ, nên mới có từ gọi “đồng bào”, ý chỉ sự gắn kết của mỗi con người Việt Nam. Những chiếc bánh trôi nước chính là biểu hiện cho truyền thống đáng quý ấy.

Trong tiết trời Hà Nội lành lành như ngày hôm nay, tôi xin được phép giới thiệu đến các bạn cách làm món bánh trôi nước, kéo mọi người xích lại gần nhau hơn.

Trước tiên, chúng ta cần chuẩn bị nguyên liệu:

  • Gạo nếp thơm: 400 gr
  • Đậu xanh xát vỏ: 200 gr
  • Đường hoa mai hoặc đường thốt nốt: 300 gr
  • Hành tím băm: 2 muỗng cà phê.
  • Gừng: 100 gr
  • Dầu ăn: 4 muỗng.
  • Vừng rang chín
  • Muối sạch: 2 muỗng
  • Đường cát trắng 2 muỗng
  • Hành tím phi thơm 100 gr.

Cách làm bánh trôi nước:

Phần 1: Chế biến nước đường

Bước 1: Gừng cạo vỏ, rửa sạch, cắt nhỏ. Sau đó thì được đập dập.

Bước 2: Đặt 500ml nước sạch cùng đường và gừng lên bếp đun sôi. Khi đun bạn nên để lửa nhỏ, dùng muỗng khuấy nhẹ để đường tan hết. Sau đó cho thêm vào nồi 1 thìa cà phê muối. Cuối cùng vặn to lửa để nồi nước nhanh sôi.

Bước 3: Khi nồi nước đã sôi bạn vặn nhỏ lửa. Đợi thêm khoảng 10 phút thì bắc xuống. Lúc này nước đã dậy lên mùi thơm ấm của gừng còn đường thì đã sệt lại.

Phần 2: Làm nhân bánh

Bước 1: Đậu xanh cần được rửa nhiều lần để sạch bụi bẩn (đến khi nước trong là được). Sau đó bạn ngâm đậu xanh với 500ml trong một cái bát lớn trong khoảng 30 phút.

Bước 2: Đậu xanh sau khi ngâm được cho vào nồi cơm điện để nấu chính. Bạn nên đổ nước xâm xấp mặt đậu để đậu chín vừa tới.

Bước 3: Khi đậu đã chín, bạn dùng muỗng lấy toàn bộ đậu ra một bát lớn. Lúc đậu còn nóng thì bạn nhanh tay tán nhuyễn sao cho sau khi tán đậu nhìn mềm, mịn là được.

Bước 4: Tiếp tục cho thêm 100gr đường cát trắng cùng 100gr hành tím phi vàng vào rồi trộn đều tay.

Bước 5: Cuối cùng bạn dùng muỗng múc từng phần đậu và nặn thành những viên tròn vừa phải cho đến khi hết lượng đậu trong bát (khoảng 8 viên).

Phần 3: Làm phần vỏ bánh

Bước 1: Cho 300ml nước sôi cùng 4 muỗng canh dầu ăn vào 350gr bột nếp thơm. Vừa đổ bạn vừa dùng tay đảo đều để không bị vón cục. Lưu ý, khi làm hỗn hợp cần được đổ từ từ và khuấy đều tay để bột có thể ngấm đủ nước. Khuấy đến khi hỗn hợp bột rất dính và ướt thì dừng tay và đậy kín chúng từ 15 tới 30 phút để bột nghỉ. Việc này giúp bột ngấm nước rồi nở ra từ từ. Lượng nước cũng ít hơn khi nhào.

Bước 2: Lót một lớp bột áo lên bàn, sau đó chuyển bột đã nhào ra khỏi tô. Bạn dùng tay để nhào số bột thành một thanh dài chừng 20cm. Lưu ý, cả thanh bột đều phải dính một lớp bột áo bên ngoài. Sau đó bạn chia thanh bột thành 8 phần bằng nhau.

Bước 3: Với mỗi phần bột bạn nặn tròn rồi ấn dẹt chúng xuống sao cho to gấp 2 lần viên đậu xanh đã nặn ở phần 2.

Bước 4: Sau khi cán dẹt, bạn cẩn thận đặt viên đậu xanh vào giữa và bọc kín lại. Phải làm sao cho lớp vỏ bánh và nhân đậu xanh dính sát nhau, không có chỗ cho không khí. Lớp vỏ bánh cũng bao trọn viên đậu bên trong. Làm như này thì khi nấu bánh sẽ không bị vỡ.

Bước 5: Dùng hai bàn tay xoa nhẹ để bánh có được hình tròn xinh và bột thì mịn. Khi xoa bạn nên làm nhẹ tay để nhân không bị lòi ra ngoài nhé!

Bước 6: Trước khi đặt chúng lên đĩa, bạn lót một lớp màng bọc thực phẩm để chúng không dính vào đĩa. Đồng thời các viên bánh cần được để cách nhau 1 khoảng để chúng không dính vào nhau.

Bước 7: Đun 500ml nước đến khi sôi thì thả nhẹ nhàng từng viên bánh vào. Sau khi thả, bạn dùng muỗng nhẹ nhàng khuấy đều để các viên bánh không dính vào nhau. Khi thấy bánh nổi lên trên mặt nước thì vớt ra (khoảng 2-3 phút).

Bước 8: Sau khi vớt bánh ra bạn cần cho ngay vào tô nước lạnh sạch. Chừng 1 – 2 phút thì vớt ra để ráo nước rồi thả vào bát nước đường đã đun sôi. Cuối cùng chỉ cần rắc thêm một chút vừng rang thơm là có thể dùng được.

Yêu cầu thành phẩm:

– Mỗi viên bánh đều nhau, trắng, bột mịn, nhân không bị vỡ. Vỏ bánh khi ăn có độ mềm dai vừa miệng. Đường trong nhân bánh phải tan hết để khi ăn có cảm giác mật chảy tràn trong miệng. Nhân bánh trôi chay phải thơm mùi đỗ xanh đã đồ chín. Đặt bánh trôi ra đĩa và chấm chút vừng lên từng viên bánh.

– Nước để ăn cùng bánh trôi chay phải có độ sánh của bột sắn, ngọt thanh của đường phèn, hương thơm thoang thoảng của hoa bưởi và vị ấm nồng của gừng.

Lưu ý giúp cho món bánh trôi được ngon:

– Bột làm bánh trôi ngon nhất là khi bạn dùng gạo nếp thơm ngâm kỹ đến khi gạo nở. Sau đó xóc với ít muối rồi đem đi xay mịn.

– Muốn nhân đỗ xanh thơm, mềm thì nên chọn loại đỗ tiêu, hạt bé.

– Khi nhào bột, ngoài việc bạn đổ nước từ từ thì cần nhào đều tay để bột không bị ướt. Nhào xong, dùng màng bọc thực phẩm bọc viên bột lại để không bị khô.

– Bột cần được vo khít, không có lỗ hổng không khí để khi đun bánh không bị vỡ.

Về cách luộc bánh

– Khi nước sôi, bạn chuyển lửa về mức trung bình, sau đó nhẹ nhàng thả từng viên bánh vào nồi.

– Bánh cần được luộc đều ở mức lửa trung bình. Nếu bạn luộc với lửa quá to thì sẽ khiến vỏ bánh chín còn nhân bánh thì sống.

– Khi bánh nổi lên bạn không nên vớt ra ngay mà dùng đũa khuấy nhẹ nhàng thêm 30s nữa cho bánh chín đều.

– Muốn bánh không bị dính vào nhau thì khi vớt ra cho ngay vào tô nước đá lạnh từ 5 tới 10 phút. Việc này giúp bánh săn lại và không bị dính vào nhau.

Cứ vào ngày 3 tháng 3 âm lịch hằng năm, mọi người lại làm bánh trôi, bánh chay. Đây là một phong tục cổ truyền rất quen thuộc với mọi người dân Việt Nam.

Nguyên liệu để nấu bánh rất thông dụng, quen thuộc. Trước tiên, chúng ta phải có gạo nếp ngon. Có thể trộn thêm gạo tẻ nhưng gạo nếp vẫn phải chiếm đa số. Có gạo làm vỏ bánh, cần có thêm đường làm nhân để tạo vị ngọt cho bánh. Nhân bánh truyền thống là bằng mật có vị thơm đậm đà. Ngày nay, nhiều gia đình dùng đường phèn có vị thơm mát. Để làm nhân bánh chay, chúng ta cần đậu xanh xay nhuyễn. Ngoài ra, cần một ít vừng, cùi dừa để rắc lên hai loại bánh.

Cách làm bánh khá đơn giản. Đầu tiên là ngâm gạo khoảng 6 đến 8 tiếng sau đó vo gạo. Vo xong, đổ gạo ra xay nước. Chú ý là không được xay khô vì như thế sẽ làm vụn gạo và các hạt sau khi xay sẽ to nhỏ không đều nhau. Xay xong đổ tất cả bột vào túi vải, buộc chặt, lấy tay nén từ từ, nhẹ nhàng để vắt nước ra. Tránh ấn mạnh tay sẽ làm bung túi vải. Nén hết nước, ta sẽ có một thứ bột dẻo để làm vỏ bánh.

Tiếp theo sẽ là bước nặn bánh. Bánh trôi được nặn tròn, to vừa phải. Cho một viên đường vào trong, nặn bột bao kín để khi luộc, đường không chảy ra. Nhân bánh chay là đậu xanh được đãi sạch vỏ, đồ chín, xay nhuyễn. Bánh và nhân phải theo một tỉ lệ hợp lí. Không nên để bánh hay nhân quá to hoặc quá nhỏ sẽ làm mất ngon khi ăn.

Tinh tế nhất là luộc bánh. Đun sôi nước rồi mới thả bánh vào. Đợi đến lúc bánh nổi lên trên mặt nước, nhẹ nhàng vớt lấy rồi thả ngay vào nước sạch và lạnh. Nếu để nóng quá lâu bánh sẽ bị chảy, không dẻo và ngon.

Thưởng thức bánh trôi, bánh chay là cả một nghệ thuật. Bánh trôi được bày vào đĩa, rắc lên trên một lớp vừng mỏng và một chút sợi cùi dừa. Bánh chay được bày trong bát. Đun nước đường pha với bột sắn rồi chan ngập mặt bánh. Ở trên rắc một ít hạt đậu xanh chín xay vỡ đôi đã đãi sạch vỏ. Màu trong của bánh, của nước dùng hài hòa với màu vàng tươi của hạt đậu xanh trông thật đẹp mắt. Đây đều là hai loại bánh ăn nguội. Bánh trôi cho vào miệng, ngậm lại rồi cắn sẽ cảm nhận được vị ngậy của gạo, vị ngọt của đường. Còn bánh chay, dùng thìa xúc miếng bánh, cắn nhẹ sẽ thấy vị ngọt mát, thơm dẻo. Với cả hai loại bánh, nếu thích, có thể cho thêm chút tinh dầu hoa bưởi.

Bây giờ, người ta không tự làm bánh nhiều như trước mà phần lớn đều đi mua khi cần. Nhưng phải tự tay mình nấu rồi thưởng thức mới cảm nhận hết cái ngon của bánh. Bánh trôi, bánh chay sẽ mãi là hai món ăn truyền thống đặc sắc của người Việt Nam.

Bài tham khảo 2

Chúng ta đang được sống trong một thế giới tràn đầy hạnh phúc, một thế giới có sự bình đẳng về chủng tộc về mọi tầng lớp dân tộc. Mà trong ta có ai biết được trong xã hội xa xưa người phụ nữ phải chịu đựng một quan niệm cổ hữu sai trái “trọng nam khinh nữ”. Sống trong hoàn cảnh đó, cũng mang trong mình số phận người phụ nữ Hồ Xuân Hương đã viết nên tác phẩm “Bánh trôi nước”

“Thân em vừa trắng lại vừa tròn

Bảy nổi ba chìm với nước non

Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn

Mà em vẫn giữ tấm lòng son”

Chỉ có những chiếc bánh trôi nước mộc mạc giản đơn thế thôi mà tác giả Hồ Xuân Hương đã làm nên một bài thơ nói lên sự chịu đựng, gánh lấy quan niệm sai trái trọng nam khinh nữ của người phụ nữ lúc bấy giờ. Bài thơ chỉ có những vốn từ đơn giản thân thuộc mà chất chứa biết bao nhiêu tình cảm.

“Thân em vừa trắng lại vừa tròn”

Tác gia đã sử dụng mô típ ca dao quen thuộc “Thân em” để người phụ nữ có thể hóa thân vào những chiếc bánh trôi nước dân dã đáng yêu. Hàm chứa bên trong vẫn là ca ngợi vẻ đẹp của người phụ nữ biến họ thành những đóa hoa xinh đẹp, lộng lẫy và thắm tươi nhất của cuộc đời. Làm cho cuộc sống này thêm tươi đẹp thêm màu sắc.

“Bảy nổi ba chìm với nước non”

Thành ngữ “bảy nổi ba chìm” được vận dụng tài tình nhằm gợi tả số phận người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến xưa. Để bày tỏ nỗi xúc động thương cảm của bà Hồ Xuân Hương đứng trước số phận lênh đênh chìm nổi chẳng biết đi về đâu của người phụ nữ. Chỉ mặc cho số phận định đoạt. Tôi tự hỏi: “Một người phụ nữ đẹp đến vậy mà vì lẽ gì phải chịu đựng cuộc đời như vậy, chẳng lúc nào được sống trong cuộc sống vui vẻ hạnh phúc?”. Tại sao những người đàn ông to lớn khỏe mạnh như thế mà không chịu những số phận khổ cực mà bắt những phụ nữ nhỏ bé kia phải gánh lấy chứ?

“Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn”. Tác giả sử dụng một biện pháp kinh tế: Đảo ngữ. Nói lên người phụ nữ phải sống lệ thuộc. “Tại gia tòng phụ, xuất giá tỏng phu, phu tử tòng tử”. Lúc ở nhà thì phụ thuộc vào cha, cha bảo gì làm nấy chằng giám làm trái. Khi lập gia thất thì phải cung phụng cho chồng, cũng chẳng giám làm sai. Lúc chồng mất sống phận của mình phải nương nhờ vào con của mình. Trên cuộc đời này làm gì có quan niệm vô lí đến thế! Vậy biết bao giờ họ mới có được cuộc sống riêng tự lâp cho chính bản thân mình. Họ phải đau khổ biết bao để chịu đựng những thứ đạo lí như thế

“Mà em vẫn giữ tấm lòng son”

Giọng thơ tự hào quả quyết biểu thị thái độ kiên trì, bền vững. “Tấm lòng son” tượng trưng cho phẩm chất sắc son thủy chung, chịu thương chịu khó của người phụ nữ Việt Nam đối với chồng con, Với mọi người tuy bị cuộc sống phụ thuộc, đối xử không công bằng trong cuộc đời. Câu thơ thể hiện niềm tự hào và biểu lộ khá đậm tính cách của Hồ Xuân Hương: Cảm thương cho người phụ nữ, căm phẫn đối với người chồng.

Bài thơ nói về người phụ nữ Việt Nam thời xưa qua hình ảnh bánh trôi nước - một món ăn dân tộc bằng một thứ ngôn ngữ bình dị, dân gian. Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt đã được Việt hóa hoàn toàn. Thơ hàm súc đa nghĩa giàu bản sắc Xuân Hương. Bài thơ biểu lộ niềm thông cảm và tự hào đối với số phận, thân phận và của người phụ nữ Việt Nam nó có gía trị nhân bản đặc sắc. Nữ sĩ viết với tất cả lòng yêu mến, tự hào bản sắc nền văn hóa Việt Nam.